<p>Bảo vệ độc lập dân tộc, 939 - 1427</p>
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương mở đầu thời kỳ độc lập dân tộc. Trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần... nối tiếp nhau xây nền độc lập.
Thời kỳ này, nước Đại Việt liên tục phải chống lại sự xâm lược của phong kiến phương Bắc. Các cuộc kháng chiến chống Tống (981-1077), Mông-Nguyên (1258-1288), Minh (1406-1427) giành những thắng lợi vang dội.
Ngô Vương
(939-944)
Tên huý: Ngô Quyền
Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, mở đầu thời kỳ độc lập tự chủ của dân tộc.
Năm 944, Ngô Quyền mất, tình hình đất nước rối ren do tranh giành quyền lực.
Năm 965, đất nước hình thành 12 sứ quân.
Quay lại
Tên huý: Ngô Quyền
Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, mở đầu thời kỳ độc lập tự chủ của dân tộc.
Năm 944, Ngô Quyền mất, tình hình đất nước rối ren do tranh giành quyền lực.
Năm 965, đất nước hình thành 12 sứ quân.
Vua Đinh Tiên Hoàng
(968 - 979)
Tượng Vua Đinh Tiên Hoàng được đặt tại đền làng Yên Thành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình từ niên đại thế kỷ XVII
Vị hoàng đế đầu tiên của nhà Đinh
Tên thật: Đinh Hoàn
Ông giữ chức Bộ Lĩnh nên còn gọi là Đinh Bộ Lĩnh
Quê quán: Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình).
Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924, mất năm 979. Ông là người dẹp loạn 12 sứ quân và lập nên nhà Đinh.
Đinh Bộ Lĩnh là người mưu lược, có chí lớn, trước cảnh đất nước có loạn cát cứ, Đinh Bộ Lĩnh tụ nghĩa ở động Hoa Lư và chỉ trong 2 năm (966-967) đánh bại và thu phục các sứ quân, thống nhất đất nước, chấm dứt nạn cát cứ kéo dài 24 năm (944-968); được tôn là "Vạn Thắng Vương".
Năm 968, ông lên ngôi, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đóng đô ở Hoa Lư, đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
Đinh Bộ Lĩnh xây dựng quân đội theo hệ thống tổ chức chặt chẽ gồm các đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Năm 970, đặt niên hiệu Thái Bình, đúc tiền riêng "Thái Bình hưng bảo", chấm dứt hoàn toàn thời kỳ lệ thuộc phong kiến phương Bắc.
Năm 979, Đinh Bộ Lĩnh và con trai trưởng của mình là Đinh Liễn bị ám hại. Con trai thứ là Đinh Toàn lên thay, tức Đinh Phế Đế. Khi đó, Đinh Toàn chỉ mới được 6 tuổi nên mọi quyền hành đều tập trung vào tay nhiếp chính là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.
Triều Đinh tồn tại qua 2 đời vua.
Thông tin liên quan
<p>Lăng mộ Vua Đinh Tiên Hoàng trên đỉnh núi Mã Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình xây dựng năm 1840</p>
<p>Đền thờ của Vua Đinh Tiên Hoàng được lập tại làng Yên Thành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình và được xây dựng vào thế kỷ XVII</p>
<p>Nghi thức rước kiệu Vua Đinh Tiên Hoàng trong Lễ hội Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, 4/2021</p>
<p>Nghi thức múa rồng tại Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, trong Lễ hội Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, 4/2018</p>
Nguyễn Bặc
(924 - 7/11/979)
Nhà thờ Nguyễn Bặc
Hiệu Định Quốc Công, là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn 12 sứ quân vào thế kỷ 10 trong lịch sử Việt Nam.
Do lập công lớn, ông được vua Đinh phong tước Định Quốc Công, vị trí như chức Tể tướng của các triều đại sau này. Ông là một trong số những người tận trung với nhà Đinh, đồng thời là bạn đồng hương, sinh và mất cùng năm với vua Đinh Tiên Hoàng.
Dân gian xem ông và Đinh Điền là những biểu tượng của tinh thần hào hiệp, trượng nghĩa và trung thành.
Quay lại
Tên thật: Đinh Hoàn
Ông giữ chức Bộ Lĩnh nên còn gọi là Đinh Bộ Lĩnh
Quê quán: Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình).
Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924, mất năm 979. Ông là người dẹp loạn 12 sứ quân và lập nên nhà Đinh.
Đinh Bộ Lĩnh là người mưu lược, có chí lớn, trước cảnh đất nước có loạn cát cứ, Đinh Bộ Lĩnh tụ nghĩa ở động Hoa Lư và chỉ trong 2 năm (966-967) đánh bại và thu phục các sứ quân, thống nhất đất nước, chấm dứt nạn cát cứ kéo dài 24 năm (944-968); được tôn là "Vạn Thắng Vương".
Năm 968, ông lên ngôi, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đóng đô ở Hoa Lư, đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
Đinh Bộ Lĩnh xây dựng quân đội theo hệ thống tổ chức chặt chẽ gồm các đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Năm 970, đặt niên hiệu Thái Bình, đúc tiền riêng "Thái Bình hưng bảo", chấm dứt hoàn toàn thời kỳ lệ thuộc phong kiến phương Bắc.
Năm 979, Đinh Bộ Lĩnh và con trai trưởng của mình là Đinh Liễn bị ám hại. Con trai thứ là Đinh Toàn lên thay, tức Đinh Phế Đế. Khi đó, Đinh Toàn chỉ mới được 6 tuổi nên mọi quyền hành đều tập trung vào tay nhiếp chính là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.
Triều Đinh tồn tại qua 2 đời vua.
Quay lại
Hiệu Định Quốc Công, là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn 12 sứ quân vào thế kỷ 10 trong lịch sử Việt Nam.
Do lập công lớn, ông được vua Đinh phong tước Định Quốc Công, vị trí như chức Tể tướng của các triều đại sau này. Ông là một trong số những người tận trung với nhà Đinh, đồng thời là bạn đồng hương, sinh và mất cùng năm với vua Đinh Tiên Hoàng.
Dân gian xem ông và Đinh Điền là những biểu tượng của tinh thần hào hiệp, trượng nghĩa và trung thành.
Nguyễn Bặc
(924 - 7/11/979)
Nhà thờ Nguyễn Bặc
Hiệu Định Quốc Công, là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn 12 sứ quân vào thế kỷ 10 trong lịch sử Việt Nam.
Do lập công lớn, ông được vua Đinh phong tước Định Quốc Công, vị trí như chức Tể tướng của các triều đại sau này. Ông là một trong số những người tận trung với nhà Đinh, đồng thời là bạn đồng hương, sinh và mất cùng năm với vua Đinh Tiên Hoàng.
Dân gian xem ông và Đinh Điền là những biểu tượng của tinh thần hào hiệp, trượng nghĩa và trung thành.
Vua Đinh Tiên Hoàng
(968 - 979)
Tượng Vua Đinh Tiên Hoàng được đặt tại đền làng Yên Thành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình từ niên đại thế kỷ XVII
Vị hoàng đế đầu tiên của nhà Đinh
Vua Đinh Tiên Hoàng
(968 - 979)
Tượng Vua Đinh Tiên Hoàng được đặt tại đền làng Yên Thành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình từ niên đại thế kỷ XVII
Vị hoàng đế đầu tiên của nhà Đinh
Tên thật: Đinh Hoàn
Ông giữ chức Bộ Lĩnh nên còn gọi là Đinh Bộ Lĩnh
Quê quán: Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình).
Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924, mất năm 979. Ông là người dẹp loạn 12 sứ quân và lập nên nhà Đinh.
Đinh Bộ Lĩnh là người mưu lược, có chí lớn, trước cảnh đất nước có loạn cát cứ, Đinh Bộ Lĩnh tụ nghĩa ở động Hoa Lư và chỉ trong 2 năm (966-967) đánh bại và thu phục các sứ quân, thống nhất đất nước, chấm dứt nạn cát cứ kéo dài 24 năm (944-968); được tôn là "Vạn Thắng Vương".
Năm 968, ông lên ngôi, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đóng đô ở Hoa Lư, đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
Đinh Bộ Lĩnh xây dựng quân đội theo hệ thống tổ chức chặt chẽ gồm các đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Năm 970, đặt niên hiệu Thái Bình, đúc tiền riêng "Thái Bình hưng bảo", chấm dứt hoàn toàn thời kỳ lệ thuộc phong kiến phương Bắc.
Năm 979, Đinh Bộ Lĩnh và con trai trưởng của mình là Đinh Liễn bị ám hại. Con trai thứ là Đinh Toàn lên thay, tức Đinh Phế Đế. Khi đó, Đinh Toàn chỉ mới được 6 tuổi nên mọi quyền hành đều tập trung vào tay nhiếp chính là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.
Triều Đinh tồn tại qua 2 đời vua.
Thông tin liên quan
<p>Lăng mộ Vua Đinh Tiên Hoàng trên đỉnh núi Mã Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình xây dựng năm 1840</p>
<p>Đền thờ của Vua Đinh Tiên Hoàng được lập tại làng Yên Thành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình và được xây dựng vào thế kỷ XVII</p>
<p>Nghi thức rước kiệu Vua Đinh Tiên Hoàng trong Lễ hội Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, 4/2021</p>
<p>Nghi thức múa rồng tại Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, trong Lễ hội Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, 4/2018</p>
Vua Đinh Tiên Hoàng
(968 - 979)
Tượng Vua Đinh Tiên Hoàng được đặt tại đền làng Yên Thành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình từ niên đại thế kỷ XVII
Vị hoàng đế đầu tiên của nhà Đinh
Quay lại
<p>Lăng mộ Vua Đinh Tiên Hoàng trên đỉnh núi Mã Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình xây dựng năm 1840</p>
Quay lại
<p>Đền thờ của Vua Đinh Tiên Hoàng được lập tại làng Yên Thành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình và được xây dựng vào thế kỷ XVII</p>
Quay lại
<p>Nghi thức rước kiệu Vua Đinh Tiên Hoàng trong Lễ hội Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, 4/2021</p>
Quay lại
<p>Nghi thức múa rồng tại Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, trong Lễ hội Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, 4/2018</p>
Quay lại
Tên thật: Đinh Hoàn
Ông giữ chức Bộ Lĩnh nên còn gọi là Đinh Bộ Lĩnh
Quê quán: Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình).
Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924, mất năm 979. Ông là người dẹp loạn 12 sứ quân và lập nên nhà Đinh.
Đinh Bộ Lĩnh là người mưu lược, có chí lớn, trước cảnh đất nước có loạn cát cứ, Đinh Bộ Lĩnh tụ nghĩa ở động Hoa Lư và chỉ trong 2 năm (966-967) đánh bại và thu phục các sứ quân, thống nhất đất nước, chấm dứt nạn cát cứ kéo dài 24 năm (944-968); được tôn là "Vạn Thắng Vương".
Năm 968, ông lên ngôi, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đóng đô ở Hoa Lư, đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
Đinh Bộ Lĩnh xây dựng quân đội theo hệ thống tổ chức chặt chẽ gồm các đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Năm 970, đặt niên hiệu Thái Bình, đúc tiền riêng "Thái Bình hưng bảo", chấm dứt hoàn toàn thời kỳ lệ thuộc phong kiến phương Bắc.
Năm 979, Đinh Bộ Lĩnh và con trai trưởng của mình là Đinh Liễn bị ám hại. Con trai thứ là Đinh Toàn lên thay, tức Đinh Phế Đế. Khi đó, Đinh Toàn chỉ mới được 6 tuổi nên mọi quyền hành đều tập trung vào tay nhiếp chính là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.
Triều Đinh tồn tại qua 2 đời vua.
Quay lại
Hiệu Định Quốc Công, là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn 12 sứ quân vào thế kỷ 10 trong lịch sử Việt Nam.
Do lập công lớn, ông được vua Đinh phong tước Định Quốc Công, vị trí như chức Tể tướng của các triều đại sau này. Ông là một trong số những người tận trung với nhà Đinh, đồng thời là bạn đồng hương, sinh và mất cùng năm với vua Đinh Tiên Hoàng.
Dân gian xem ông và Đinh Điền là những biểu tượng của tinh thần hào hiệp, trượng nghĩa và trung thành.
Vua Lê Đại Hành
(980 - 1005)
Tượng Vua Lê Đại Hành tại đền làng Yên Thành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình được xây dựng từ thế kỷ XVII
Vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê
Tên huý: Lê Hoàn
Quê quán: Làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Lê Hoàn sinh năm 941, mất năm 1005. Ông là người mở nghiệp nhà Tiền Lê, nguyên là Thập đạo tướng quân thời Đinh (Lê Hoàn theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, được phong đến Thập đạo tướng quân).
Tháng 7/980, được suy tôn lên ngôi, đóng đô ở Hoa Lư.
Tháng 10/980, Lê Hoàn sai Giang Cự Vọng sang Tống lập kế hoãn binh, để chuẩn bị thế trận giữ nước.
Tháng 4/981, nhà Tống cử nhiều tướng cùng 30.000 quân sang xâm lược Đại Cồ Việt. Lê Hoàn cho xây dựng trận địa cọc ngầm ở khu vực cửa sông Bạch Đằng, dùng mưu trá hàng dụ địch vào trận địa mai phục, đồng loạt tiến công giết hàng vạn quân Tống, chém đầu tướng chỉ huy Hầu Nhân Bảo. Thừa thắng bao vây tiêu diệt đội kỳ binh địch ở Tây Kết (Khoái Châu, Hưng Yên), bắt sống một số tướng địch, buộc nhà Tống bãi binh.
Năm 982, nhân vua Chiêm Thành bắt giam sứ thần nước Đại Cồ Việt là Từ Mục và Ngô Tử Canh, Lê Hoàn xuất quân đánh, buộc Chiêm Thành phải thần phục. Ông là người có công lớn trong việc “Kháng Tống, Bình Chiêm” để giữ yên bờ cõi.
Năm 1005, Lê Đại Hành mất, các con tranh giành nhau ngôi vị dẫn đến cốt nhục tương tàn.
Năm 1009, qua 3 đời vua, triều đại Tiền Lê kết thúc.
Thông tin liên quan
<p>Đền thờ Vua Lê Đại Hành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, thế kỷ XVII</p>
<p>Lăng mộ Vua Lê Đại Hành dưới chân núi Mã Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, xây dựng năm 1840</p>
<p>Hai tấm bia ghi những sự kiện lịch sử gắn với Lê Hoàn (Vua Lê Đại Hành) trong đền thờ tại huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, đầu thế kỷ XVII</p>
Quay lại
<p>Đền thờ Vua Lê Đại Hành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, thế kỷ XVII</p>
Quay lại
<p>Lăng mộ Vua Lê Đại Hành dưới chân núi Mã Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, xây dựng năm 1840</p>
Quay lại
<p>Hai tấm bia ghi những sự kiện lịch sử gắn với Lê Hoàn (Vua Lê Đại Hành) trong đền thờ tại huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, đầu thế kỷ XVII</p>
Quay lại
Tên huý: Lê Hoàn
Quê quán: Làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Lê Hoàn sinh năm 941, mất năm 1005. Ông là người mở nghiệp nhà Tiền Lê, nguyên là Thập đạo tướng quân thời Đinh (Lê Hoàn theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, được phong đến Thập đạo tướng quân).
Tháng 7/980, được suy tôn lên ngôi, đóng đô ở Hoa Lư.
Tháng 10/980, Lê Hoàn sai Giang Cự Vọng sang Tống lập kế hoãn binh, để chuẩn bị thế trận giữ nước.
Tháng 4/981, nhà Tống cử nhiều tướng cùng 30.000 quân sang xâm lược Đại Cồ Việt. Lê Hoàn cho xây dựng trận địa cọc ngầm ở khu vực cửa sông Bạch Đằng, dùng mưu trá hàng dụ địch vào trận địa mai phục, đồng loạt tiến công giết hàng vạn quân Tống, chém đầu tướng chỉ huy Hầu Nhân Bảo. Thừa thắng bao vây tiêu diệt đội kỳ binh địch ở Tây Kết (Khoái Châu, Hưng Yên), bắt sống một số tướng địch, buộc nhà Tống bãi binh.
Năm 982, nhân vua Chiêm Thành bắt giam sứ thần nước Đại Cồ Việt là Từ Mục và Ngô Tử Canh, Lê Hoàn xuất quân đánh, buộc Chiêm Thành phải thần phục. Ông là người có công lớn trong việc “Kháng Tống, Bình Chiêm” để giữ yên bờ cõi.
Năm 1005, Lê Đại Hành mất, các con tranh giành nhau ngôi vị dẫn đến cốt nhục tương tàn.
Năm 1009, qua 3 đời vua, triều đại Tiền Lê kết thúc.
Vua Lý Thái Tổ
(1010 – 1028)
Vị vua khởi đầu triều Lý
Tên huý: Lý Công Uẩn
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), mất năm 1028. Mẹ ông họ Phạm và mất khi ông mới được sinh ra. Lý Công Uẩn được thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi.
Lý Công Uẩn thông minh và có chí khí khác người ngay từ nhỏ.
Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ triều Tiền Lê, khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.
Tháng 7/1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến, Nhà vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là Kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay).
Ở ngôi 18 năm (1010-1028), ông có nhiều công chăm lo việc nội trị, củng cố chính quyền, phát triển đạo Phật, mở rộng quan hệ bang giao với các nước láng giềng, giữ gìn toàn vẹn bờ cõi, tạo cơ sở xây dựng quốc gia độc lập, thống nhất.
Vua Lý Thái Tông
(1028 – 1054)
Tên huý: Lý Phật Mã
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Phật Mã sinh năm 1000 và mất năm 1054. Ông là một danh tướng và là con trưởng của Lý Thái Tổ. Mẹ là Lê Thị Phất Ngân con gái của Lê Đại Hành và Dương Vân Nga. Ông
Năm 1020, ông được phong nguyên soái đi đánh Chiêm Thành ở Bố Chính (nay là Quảng Bình), bắt được tướng địch.
Từ khi lên ngôi, Lý Thái Tông tự mình cầm quân đánh dẹp các vụ nổi loạn ở Châu Hoan (1031), châu Định Nguyên (1033), Châu Ái (1035), châu Quảng Nguyên (1039).
Năm 1044, đem quân đánh lại Chiêm Thành, đại thắng ở bờ nam sông Ngũ Bồ (hạ lưu sông Thu Bồn), diệt và bắt sống 35.000 địch, giết vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu, tiến vào thành Phật Thệ (thành Chà Bàn, Quy Nhơn).
Lý Thái Tông là vị vua giỏi chinh chiến, đánh đâu được đó, giữ yên bờ cõi và trị vì đất nước (khuyên dân làm ăn, tự mình cày ruộng để làm gương).
Vua Lý Thánh Tông
(1054 – 1072)
Tên huý: Lý Nhật Tông
Lý Nhật Tông sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023); là con của bà Kim Thiên Thái hậu họ Mai.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”.
Lý Thường Kiệt
(1019 - 1105)
Nguyên danh: Ngô Tuấn
Quê quán: Phường Thái Hoà, huyện Thọ Xương, Thăng Long (nay thuộc thành phố Hà Nội).
Lý Thường Kiệt là anh hùng dân tộc, tể tướng, nhà Quân sự kiệt xuất, thống lĩnh Quân đội thời Lý. Ông sinh năm Kỷ Mùi 1019; là người văn võ song toàn, được Lý Thánh Tông coi như em ruột.
Năm 1069, được cử làm tướng tiên phong cùng Lý Thánh Tông đánh lại Chiêm Thành, bắt Chế Củ (vua Chiêm Thành).
Năm 1074, có công đưa Lý Đạo Thành về làm thái phó, ổn định triều chính.
Năm 1075, cùng Tông Đản đánh sang Châu Khâm, Châu Ung, Châu Liêm, phá kế hoạch chuẩn bị xâm lược Đại Việt của nhà Tống. Cùng năm, vẽ bản đồ các châu: Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý, xác định chủ quyền của Đại Việt, được phong làm thái úy.
Năm 1077, đánh bại quân Tống xâm lược do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy ở phòng tuyến sông Như Nguyệt.
Năm 1103, dẹp loạn Lý Giác ở Diễn Châu (Nghệ An).
Năm 1104, đánh bại vua Chiêm Thành là Chế Ma Na ở Quảng Bình. Nhà quân sự đầu tiên thực hiện thắng lợi tư tưởng chủ động tiến công "ngồi yên đợi giặc sao bằng đem quân đánh trước để chặn mũi nhọn của chúng", nhà cải cách Quân đội.
Tương truyền là tác giả bài thơ "Nam quốc sơn hà" và "Phạt Tống lộ bố văn". Hiện có đền thờ ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa và nhiều nơi trong cả nước.
Vai trò quan trọng của Lý Thường Kiệt trong việc chống giặc ngoại xâm
Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, Lý Thường Kiệt có công giữ yên biên giới, mở mang bờ cõi cho nước Đại Việt.
Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống nhà Tống năm 1075-1077, Lý Thường Kiệt đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Ông trực tiếp tổ chức và lãnh đạo quân dân chống lại giặc ngoại xâm. Trong cuộc kháng chiến này, ông bộc lộ rõ tài năng quân sự xuất chúng.Năm 1075, nghe tin nhà Tống ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt bèn tâu với vua Lý Nhân Tông: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân đánh trước, chặn thế mạnh của giặc”.
Ngoài ra, danh tướng nhà Lý còn khéo léo vận động sức dân, đồng thời nâng cao sĩ khí cho quân lính. Ông viết Phạt Tống lộ bố văn, nêu rõ lý do cuộc hành quân của mình là đập tan quá trình chuẩn bị xâm lược của nhà Tống.
Lý Thường Kiệt đã khéo léo vận dụng phổ biến hình thức chiến thuật tập kích, đánh úp, đánh bất ngờ, nhanh chóng hạ hàng loạt căn cứ của quân Tống.
Ông cũng thay đổi chiến thuật linh hoạt để phù hợp tình hình thực tế. Trong trận đánh Ung Châu - căn cứ chính của quân nhà Tống, Lý Thường Kiệt dùng cách đánh tăng tấn công, kết hợp nhiều chiến thuật như sai quân đào hầm từ dưới đất đánh lên, dùng hỏa tiễn đốt phá trại giặc, đắp đất cao ngang tường thành để trèo lên.
Đến tháng 3/1076, quân nhà Lý triệt hạ ba căn cứ lớn của quân Tống là Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu, thực hiện kế hoạch phá hủy quân lương, buộc nhà Tống phải hoãn kế hoạch tiến đánh nước ta.
Lý Thường Kiệt chủ trương kết hợp hai cách đánh tiến công và phòng thủ nên sau thắng lợi ban đầu, ông ra lệnh rút quân về nước, xây dựng các lớp phòng ngự, sẵn sàng nghênh địch.
Khi đến bờ Bắc sông Như Nguyệt, quân nhà Tống không tấn công ngay mà chờ thủy quân. Tuy nhiên, cánh quân thủy đã bị quân ta chặn đánh trong trận Đông Kênh, không thể tiến sâu vào Đại Việt theo đúng kế hoạch. Chờ không được thủy quân, quân nhà Tống tổ chức hai lần tấn công chiến lũy Như Nguyệt nhưng đều thất bại nặng nề.
Sau hai tháng, chờ quân địch mệt mỏi, Lý Thường Kiệt phát động phản công, giành thắng lớn.
Sau chiến thắng trên sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt biết quân nhà Tống đã lâm vào thế bí, mà người Nam bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất nên sai sứ thần sang "nghị hoà" để quân nhà Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống nhà Tống không chỉ nhờ quân dân đồng lòng, kết hợp công - thủ mà còn nhờ cách đánh vào lòng người của Lý Thường Kiệt.
Thông tin liên quan
<p>Đền thờ Lý Thường Kiệt tại xã Hà Ngọc- huyện Hà Trung- tỉnh Thanh Hoá, xây dựng thế kỷ XVI</p>
Vua Lý Nhân Tông
(1072 – 1128)
Tên huý: Lý Càn Đức
Lý Nhân Tông là con trưởng của Lý Thánh Tông và bà Nguyên phi Ỷ Lan, sau là Thái hậu Linh Nhân.
Thái tử sinh ngày 25 tháng Giêng năm Bính Ngọ (1066), khi Lý Thánh Tông mất, Thái tử lên ngôi Hoàng đế (1072) lúc mới 6 tuổi, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan phải buông rèm nhiếp chính.
Năm 1075, thời Tống Thần Tông, Vương An Thạch làm Tể tướng âm mưu xâm lược nước ta, Thái úy Lý Thường Kiệt biết rõ âm mưu xâm lược của nhà Tống nên đã đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của chúng ở Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung (Quảng Đông, Quảng Tây) rồi chủ động rút quân về nước lập phòng tuyến ở bờ nam sông Cầu để chặn giặc.
Vua Lý Thần Tông
(1128 - 1138)
Tên huý: Lý Dương Hoán
Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của em trai là Sùng Hiền Hầu Dương Hoán lên làm Thái tử, kế vị Hoàng đế là vua Lý Thần Tông.
Vua Lý Thần Tông khuyến khích phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp.
Vua Lý Anh Tông
(1138 - 1175)
Tên huý: Lý Thiên Tộ
Lý Anh Tông là con đích trưởng của Lý Thần Tông và Lê Hoàng hậu.
Ông sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136); lên ngôi Hoàng đế năm 1138, lúc đó mới 3 tuổi.
Lê Hoàng hậu cầm quyền nhiếp chính lại tư thông với Đỗ Anh Vũ làm cho triều đình đổ nát, sau nhờ có các trung thần như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên giữ vững được cơ đồ nhà Lý.
Vua Lý Cao Tông
(1211 - 1224)
Tên huý : Lý Sảm
Thái tử Sảm lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Huệ Tông. Lập Trần Thị Dung làm nguyên phi, phong cho Trần Tự Khánh làm Chương Tín hầu, Tô Trung Tự làm Thái uý, Thuận Lưu Bá, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ.
Thái tử Sảm sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194) con cả của Cao Tông và bà Hoàng hậu họ Đàm.
Vua Huệ Tông thường rượu chè say khướt suốt ngày, bỏ bê triều chính. Huệ Tông không có con trai. Hoàng hậu Trần Thị Dung chỉ sinh được hai con gái.
Con gái lớn là Thuận Thiên công chúa đã gả cho Phụng kiều vương Trần Liễu, công chúa thứ 2 là Phật Kim (công chúa Chiêu Thánh) mới 7 tuổi được làm Thái tử.
Vua Lý Chiêu Hoàng
(1224 - 1225)
Tên huý: Lý Phật Kim
Dưới sự điều phối của Trần Thủ Độ, Lý Huệ Tông bị ép đi tu, nhường ngôi vua cho con gái là công chúa Chiêu Thánh (lúc đó mới 7 tuổi) niên hiệu là Lý Chiêu Hoàng.
Binh quyền về tay Trần Thủ Độ. Cũng dưới sự điều phối của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh (8 tuổi) là con ông Trần Thừa được đưa vào hầu cận Lý Chiêu Hoàng.
Trần Cảnh được Chiêu Hoàng yêu mến, thường hay té nước, ném khăn trêu đùa. Trần Thủ Độ tung tin là Lý Chiêu Hoàng đã lấy chồng là Trần Cảnh.
Ngày 21/10/1225 (năm Ất Dậu), Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, trước bá quan văn võ, Chiêu Hoàng cởi hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, dựng lên triều đại nhà Trần từ đấy.
Quay lại
Tên huý: Lý Công Uẩn
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), mất năm 1028. Mẹ ông họ Phạm và mất khi ông mới được sinh ra. Lý Công Uẩn được thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi.
Lý Công Uẩn thông minh và có chí khí khác người ngay từ nhỏ.
Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ triều Tiền Lê, khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.
Tháng 7/1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến, Nhà vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là Kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay).
Ở ngôi 18 năm (1010-1028), ông có nhiều công chăm lo việc nội trị, củng cố chính quyền, phát triển đạo Phật, mở rộng quan hệ bang giao với các nước láng giềng, giữ gìn toàn vẹn bờ cõi, tạo cơ sở xây dựng quốc gia độc lập, thống nhất.
Quay lại
Tên huý: Lý Phật Mã
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Phật Mã sinh năm 1000 và mất năm 1054. Ông là một danh tướng và là con trưởng của Lý Thái Tổ. Mẹ là Lê Thị Phất Ngân con gái của Lê Đại Hành và Dương Vân Nga. Ông
Năm 1020, ông được phong nguyên soái đi đánh Chiêm Thành ở Bố Chính (nay là Quảng Bình), bắt được tướng địch.
Từ khi lên ngôi, Lý Thái Tông tự mình cầm quân đánh dẹp các vụ nổi loạn ở Châu Hoan (1031), châu Định Nguyên (1033), Châu Ái (1035), châu Quảng Nguyên (1039).
Năm 1044, đem quân đánh lại Chiêm Thành, đại thắng ở bờ nam sông Ngũ Bồ (hạ lưu sông Thu Bồn), diệt và bắt sống 35.000 địch, giết vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu, tiến vào thành Phật Thệ (thành Chà Bàn, Quy Nhơn).
Lý Thái Tông là vị vua giỏi chinh chiến, đánh đâu được đó, giữ yên bờ cõi và trị vì đất nước (khuyên dân làm ăn, tự mình cày ruộng để làm gương).
Quay lại
Tên huý: Lý Nhật Tông
Lý Nhật Tông sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023); là con của bà Kim Thiên Thái hậu họ Mai.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”.
Vua Lý Thái Tông
(1028 – 1054)
Tên huý: Lý Phật Mã
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Phật Mã sinh năm 1000 và mất năm 1054. Ông là một danh tướng và là con trưởng của Lý Thái Tổ. Mẹ là Lê Thị Phất Ngân con gái của Lê Đại Hành và Dương Vân Nga. Ông
Năm 1020, ông được phong nguyên soái đi đánh Chiêm Thành ở Bố Chính (nay là Quảng Bình), bắt được tướng địch.
Từ khi lên ngôi, Lý Thái Tông tự mình cầm quân đánh dẹp các vụ nổi loạn ở Châu Hoan (1031), châu Định Nguyên (1033), Châu Ái (1035), châu Quảng Nguyên (1039).
Năm 1044, đem quân đánh lại Chiêm Thành, đại thắng ở bờ nam sông Ngũ Bồ (hạ lưu sông Thu Bồn), diệt và bắt sống 35.000 địch, giết vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu, tiến vào thành Phật Thệ (thành Chà Bàn, Quy Nhơn).
Lý Thái Tông là vị vua giỏi chinh chiến, đánh đâu được đó, giữ yên bờ cõi và trị vì đất nước (khuyên dân làm ăn, tự mình cày ruộng để làm gương).
Vua Lý Thái Tổ
(1010 – 1028)
Vị vua khởi đầu triều Lý
Tên huý: Lý Công Uẩn
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), mất năm 1028. Mẹ ông họ Phạm và mất khi ông mới được sinh ra. Lý Công Uẩn được thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi.
Lý Công Uẩn thông minh và có chí khí khác người ngay từ nhỏ.
Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ triều Tiền Lê, khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.
Tháng 7/1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến, Nhà vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là Kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay).
Ở ngôi 18 năm (1010-1028), ông có nhiều công chăm lo việc nội trị, củng cố chính quyền, phát triển đạo Phật, mở rộng quan hệ bang giao với các nước láng giềng, giữ gìn toàn vẹn bờ cõi, tạo cơ sở xây dựng quốc gia độc lập, thống nhất.
Vua Lý Thánh Tông
(1054 – 1072)
Tên huý: Lý Nhật Tông
Lý Nhật Tông sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023); là con của bà Kim Thiên Thái hậu họ Mai.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”.
Lý Thường Kiệt
(1019 - 1105)
Nguyên danh: Ngô Tuấn
Quê quán: Phường Thái Hoà, huyện Thọ Xương, Thăng Long (nay thuộc thành phố Hà Nội).
Lý Thường Kiệt là anh hùng dân tộc, tể tướng, nhà Quân sự kiệt xuất, thống lĩnh Quân đội thời Lý. Ông sinh năm Kỷ Mùi 1019; là người văn võ song toàn, được Lý Thánh Tông coi như em ruột.
Năm 1069, được cử làm tướng tiên phong cùng Lý Thánh Tông đánh lại Chiêm Thành, bắt Chế Củ (vua Chiêm Thành).
Năm 1074, có công đưa Lý Đạo Thành về làm thái phó, ổn định triều chính.
Năm 1075, cùng Tông Đản đánh sang Châu Khâm, Châu Ung, Châu Liêm, phá kế hoạch chuẩn bị xâm lược Đại Việt của nhà Tống. Cùng năm, vẽ bản đồ các châu: Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý, xác định chủ quyền của Đại Việt, được phong làm thái úy.
Năm 1077, đánh bại quân Tống xâm lược do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy ở phòng tuyến sông Như Nguyệt.
Năm 1103, dẹp loạn Lý Giác ở Diễn Châu (Nghệ An).
Năm 1104, đánh bại vua Chiêm Thành là Chế Ma Na ở Quảng Bình. Nhà quân sự đầu tiên thực hiện thắng lợi tư tưởng chủ động tiến công "ngồi yên đợi giặc sao bằng đem quân đánh trước để chặn mũi nhọn của chúng", nhà cải cách Quân đội.
Tương truyền là tác giả bài thơ "Nam quốc sơn hà" và "Phạt Tống lộ bố văn". Hiện có đền thờ ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa và nhiều nơi trong cả nước.
Vai trò quan trọng của Lý Thường Kiệt trong việc chống giặc ngoại xâm
Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, Lý Thường Kiệt có công giữ yên biên giới, mở mang bờ cõi cho nước Đại Việt.
Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống nhà Tống năm 1075-1077, Lý Thường Kiệt đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Ông trực tiếp tổ chức và lãnh đạo quân dân chống lại giặc ngoại xâm. Trong cuộc kháng chiến này, ông bộc lộ rõ tài năng quân sự xuất chúng.Năm 1075, nghe tin nhà Tống ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt bèn tâu với vua Lý Nhân Tông: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân đánh trước, chặn thế mạnh của giặc”.
Ngoài ra, danh tướng nhà Lý còn khéo léo vận động sức dân, đồng thời nâng cao sĩ khí cho quân lính. Ông viết Phạt Tống lộ bố văn, nêu rõ lý do cuộc hành quân của mình là đập tan quá trình chuẩn bị xâm lược của nhà Tống.
Lý Thường Kiệt đã khéo léo vận dụng phổ biến hình thức chiến thuật tập kích, đánh úp, đánh bất ngờ, nhanh chóng hạ hàng loạt căn cứ của quân Tống.
Ông cũng thay đổi chiến thuật linh hoạt để phù hợp tình hình thực tế. Trong trận đánh Ung Châu - căn cứ chính của quân nhà Tống, Lý Thường Kiệt dùng cách đánh tăng tấn công, kết hợp nhiều chiến thuật như sai quân đào hầm từ dưới đất đánh lên, dùng hỏa tiễn đốt phá trại giặc, đắp đất cao ngang tường thành để trèo lên.
Đến tháng 3/1076, quân nhà Lý triệt hạ ba căn cứ lớn của quân Tống là Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu, thực hiện kế hoạch phá hủy quân lương, buộc nhà Tống phải hoãn kế hoạch tiến đánh nước ta.
Lý Thường Kiệt chủ trương kết hợp hai cách đánh tiến công và phòng thủ nên sau thắng lợi ban đầu, ông ra lệnh rút quân về nước, xây dựng các lớp phòng ngự, sẵn sàng nghênh địch.
Khi đến bờ Bắc sông Như Nguyệt, quân nhà Tống không tấn công ngay mà chờ thủy quân. Tuy nhiên, cánh quân thủy đã bị quân ta chặn đánh trong trận Đông Kênh, không thể tiến sâu vào Đại Việt theo đúng kế hoạch. Chờ không được thủy quân, quân nhà Tống tổ chức hai lần tấn công chiến lũy Như Nguyệt nhưng đều thất bại nặng nề.
Sau hai tháng, chờ quân địch mệt mỏi, Lý Thường Kiệt phát động phản công, giành thắng lớn.
Sau chiến thắng trên sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt biết quân nhà Tống đã lâm vào thế bí, mà người Nam bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất nên sai sứ thần sang "nghị hoà" để quân nhà Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống nhà Tống không chỉ nhờ quân dân đồng lòng, kết hợp công - thủ mà còn nhờ cách đánh vào lòng người của Lý Thường Kiệt.
Thông tin liên quan
<p>Đền thờ Lý Thường Kiệt tại xã Hà Ngọc- huyện Hà Trung- tỉnh Thanh Hoá, xây dựng thế kỷ XVI</p>
Vua Lý Nhân Tông
(1072 – 1128)
Tên huý: Lý Càn Đức
Lý Nhân Tông là con trưởng của Lý Thánh Tông và bà Nguyên phi Ỷ Lan, sau là Thái hậu Linh Nhân.
Thái tử sinh ngày 25 tháng Giêng năm Bính Ngọ (1066), khi Lý Thánh Tông mất, Thái tử lên ngôi Hoàng đế (1072) lúc mới 6 tuổi, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan phải buông rèm nhiếp chính.
Năm 1075, thời Tống Thần Tông, Vương An Thạch làm Tể tướng âm mưu xâm lược nước ta, Thái úy Lý Thường Kiệt biết rõ âm mưu xâm lược của nhà Tống nên đã đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của chúng ở Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung (Quảng Đông, Quảng Tây) rồi chủ động rút quân về nước lập phòng tuyến ở bờ nam sông Cầu để chặn giặc.
Vua Lý Thần Tông
(1128 - 1138)
Tên huý: Lý Dương Hoán
Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của em trai là Sùng Hiền Hầu Dương Hoán lên làm Thái tử, kế vị Hoàng đế là vua Lý Thần Tông.
Vua Lý Thần Tông khuyến khích phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp.
Vua Lý Anh Tông
(1138 - 1175)
Tên huý: Lý Thiên Tộ
Lý Anh Tông là con đích trưởng của Lý Thần Tông và Lê Hoàng hậu.
Ông sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136); lên ngôi Hoàng đế năm 1138, lúc đó mới 3 tuổi.
Lê Hoàng hậu cầm quyền nhiếp chính lại tư thông với Đỗ Anh Vũ làm cho triều đình đổ nát, sau nhờ có các trung thần như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên giữ vững được cơ đồ nhà Lý.
Vua Lý Cao Tông
(1211 - 1224)
Tên huý : Lý Sảm
Thái tử Sảm lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Huệ Tông. Lập Trần Thị Dung làm nguyên phi, phong cho Trần Tự Khánh làm Chương Tín hầu, Tô Trung Tự làm Thái uý, Thuận Lưu Bá, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ.
Thái tử Sảm sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194) con cả của Cao Tông và bà Hoàng hậu họ Đàm.
Vua Huệ Tông thường rượu chè say khướt suốt ngày, bỏ bê triều chính. Huệ Tông không có con trai. Hoàng hậu Trần Thị Dung chỉ sinh được hai con gái.
Con gái lớn là Thuận Thiên công chúa đã gả cho Phụng kiều vương Trần Liễu, công chúa thứ 2 là Phật Kim (công chúa Chiêu Thánh) mới 7 tuổi được làm Thái tử.
Vua Lý Chiêu Hoàng
(1224 - 1225)
Tên huý: Lý Phật Kim
Dưới sự điều phối của Trần Thủ Độ, Lý Huệ Tông bị ép đi tu, nhường ngôi vua cho con gái là công chúa Chiêu Thánh (lúc đó mới 7 tuổi) niên hiệu là Lý Chiêu Hoàng.
Binh quyền về tay Trần Thủ Độ. Cũng dưới sự điều phối của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh (8 tuổi) là con ông Trần Thừa được đưa vào hầu cận Lý Chiêu Hoàng.
Trần Cảnh được Chiêu Hoàng yêu mến, thường hay té nước, ném khăn trêu đùa. Trần Thủ Độ tung tin là Lý Chiêu Hoàng đã lấy chồng là Trần Cảnh.
Ngày 21/10/1225 (năm Ất Dậu), Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, trước bá quan văn võ, Chiêu Hoàng cởi hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, dựng lên triều đại nhà Trần từ đấy.
Quay lại
Tên huý: Lý Công Uẩn
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), mất năm 1028. Mẹ ông họ Phạm và mất khi ông mới được sinh ra. Lý Công Uẩn được thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi.
Lý Công Uẩn thông minh và có chí khí khác người ngay từ nhỏ.
Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ triều Tiền Lê, khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.
Tháng 7/1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến, Nhà vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là Kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay).
Ở ngôi 18 năm (1010-1028), ông có nhiều công chăm lo việc nội trị, củng cố chính quyền, phát triển đạo Phật, mở rộng quan hệ bang giao với các nước láng giềng, giữ gìn toàn vẹn bờ cõi, tạo cơ sở xây dựng quốc gia độc lập, thống nhất.
Quay lại
Tên huý: Lý Phật Mã
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Phật Mã sinh năm 1000 và mất năm 1054. Ông là một danh tướng và là con trưởng của Lý Thái Tổ. Mẹ là Lê Thị Phất Ngân con gái của Lê Đại Hành và Dương Vân Nga. Ông
Năm 1020, ông được phong nguyên soái đi đánh Chiêm Thành ở Bố Chính (nay là Quảng Bình), bắt được tướng địch.
Từ khi lên ngôi, Lý Thái Tông tự mình cầm quân đánh dẹp các vụ nổi loạn ở Châu Hoan (1031), châu Định Nguyên (1033), Châu Ái (1035), châu Quảng Nguyên (1039).
Năm 1044, đem quân đánh lại Chiêm Thành, đại thắng ở bờ nam sông Ngũ Bồ (hạ lưu sông Thu Bồn), diệt và bắt sống 35.000 địch, giết vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu, tiến vào thành Phật Thệ (thành Chà Bàn, Quy Nhơn).
Lý Thái Tông là vị vua giỏi chinh chiến, đánh đâu được đó, giữ yên bờ cõi và trị vì đất nước (khuyên dân làm ăn, tự mình cày ruộng để làm gương).
Quay lại
Tên huý: Lý Nhật Tông
Lý Nhật Tông sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023); là con của bà Kim Thiên Thái hậu họ Mai.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”.
Vua Lý Thánh Tông
(1054 – 1072)
Tên huý: Lý Nhật Tông
Lý Nhật Tông sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023); là con của bà Kim Thiên Thái hậu họ Mai.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”.
Vua Lý Thái Tổ
(1010 – 1028)
Vị vua khởi đầu triều Lý
Tên huý: Lý Công Uẩn
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), mất năm 1028. Mẹ ông họ Phạm và mất khi ông mới được sinh ra. Lý Công Uẩn được thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi.
Lý Công Uẩn thông minh và có chí khí khác người ngay từ nhỏ.
Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ triều Tiền Lê, khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.
Tháng 7/1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến, Nhà vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là Kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay).
Ở ngôi 18 năm (1010-1028), ông có nhiều công chăm lo việc nội trị, củng cố chính quyền, phát triển đạo Phật, mở rộng quan hệ bang giao với các nước láng giềng, giữ gìn toàn vẹn bờ cõi, tạo cơ sở xây dựng quốc gia độc lập, thống nhất.
Vua Lý Thái Tông
(1028 – 1054)
Tên huý: Lý Phật Mã
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Phật Mã sinh năm 1000 và mất năm 1054. Ông là một danh tướng và là con trưởng của Lý Thái Tổ. Mẹ là Lê Thị Phất Ngân con gái của Lê Đại Hành và Dương Vân Nga. Ông
Năm 1020, ông được phong nguyên soái đi đánh Chiêm Thành ở Bố Chính (nay là Quảng Bình), bắt được tướng địch.
Từ khi lên ngôi, Lý Thái Tông tự mình cầm quân đánh dẹp các vụ nổi loạn ở Châu Hoan (1031), châu Định Nguyên (1033), Châu Ái (1035), châu Quảng Nguyên (1039).
Năm 1044, đem quân đánh lại Chiêm Thành, đại thắng ở bờ nam sông Ngũ Bồ (hạ lưu sông Thu Bồn), diệt và bắt sống 35.000 địch, giết vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu, tiến vào thành Phật Thệ (thành Chà Bàn, Quy Nhơn).
Lý Thái Tông là vị vua giỏi chinh chiến, đánh đâu được đó, giữ yên bờ cõi và trị vì đất nước (khuyên dân làm ăn, tự mình cày ruộng để làm gương).
Lý Thường Kiệt
(1019 - 1105)
Nguyên danh: Ngô Tuấn
Quê quán: Phường Thái Hoà, huyện Thọ Xương, Thăng Long (nay thuộc thành phố Hà Nội).
Lý Thường Kiệt là anh hùng dân tộc, tể tướng, nhà Quân sự kiệt xuất, thống lĩnh Quân đội thời Lý. Ông sinh năm Kỷ Mùi 1019; là người văn võ song toàn, được Lý Thánh Tông coi như em ruột.
Năm 1069, được cử làm tướng tiên phong cùng Lý Thánh Tông đánh lại Chiêm Thành, bắt Chế Củ (vua Chiêm Thành).
Năm 1074, có công đưa Lý Đạo Thành về làm thái phó, ổn định triều chính.
Năm 1075, cùng Tông Đản đánh sang Châu Khâm, Châu Ung, Châu Liêm, phá kế hoạch chuẩn bị xâm lược Đại Việt của nhà Tống. Cùng năm, vẽ bản đồ các châu: Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý, xác định chủ quyền của Đại Việt, được phong làm thái úy.
Năm 1077, đánh bại quân Tống xâm lược do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy ở phòng tuyến sông Như Nguyệt.
Năm 1103, dẹp loạn Lý Giác ở Diễn Châu (Nghệ An).
Năm 1104, đánh bại vua Chiêm Thành là Chế Ma Na ở Quảng Bình. Nhà quân sự đầu tiên thực hiện thắng lợi tư tưởng chủ động tiến công "ngồi yên đợi giặc sao bằng đem quân đánh trước để chặn mũi nhọn của chúng", nhà cải cách Quân đội.
Tương truyền là tác giả bài thơ "Nam quốc sơn hà" và "Phạt Tống lộ bố văn". Hiện có đền thờ ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa và nhiều nơi trong cả nước.
Vai trò quan trọng của Lý Thường Kiệt trong việc chống giặc ngoại xâm
Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, Lý Thường Kiệt có công giữ yên biên giới, mở mang bờ cõi cho nước Đại Việt.
Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống nhà Tống năm 1075-1077, Lý Thường Kiệt đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Ông trực tiếp tổ chức và lãnh đạo quân dân chống lại giặc ngoại xâm. Trong cuộc kháng chiến này, ông bộc lộ rõ tài năng quân sự xuất chúng.Năm 1075, nghe tin nhà Tống ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt bèn tâu với vua Lý Nhân Tông: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân đánh trước, chặn thế mạnh của giặc”.
Ngoài ra, danh tướng nhà Lý còn khéo léo vận động sức dân, đồng thời nâng cao sĩ khí cho quân lính. Ông viết Phạt Tống lộ bố văn, nêu rõ lý do cuộc hành quân của mình là đập tan quá trình chuẩn bị xâm lược của nhà Tống.
Lý Thường Kiệt đã khéo léo vận dụng phổ biến hình thức chiến thuật tập kích, đánh úp, đánh bất ngờ, nhanh chóng hạ hàng loạt căn cứ của quân Tống.
Ông cũng thay đổi chiến thuật linh hoạt để phù hợp tình hình thực tế. Trong trận đánh Ung Châu - căn cứ chính của quân nhà Tống, Lý Thường Kiệt dùng cách đánh tăng tấn công, kết hợp nhiều chiến thuật như sai quân đào hầm từ dưới đất đánh lên, dùng hỏa tiễn đốt phá trại giặc, đắp đất cao ngang tường thành để trèo lên.
Đến tháng 3/1076, quân nhà Lý triệt hạ ba căn cứ lớn của quân Tống là Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu, thực hiện kế hoạch phá hủy quân lương, buộc nhà Tống phải hoãn kế hoạch tiến đánh nước ta.
Lý Thường Kiệt chủ trương kết hợp hai cách đánh tiến công và phòng thủ nên sau thắng lợi ban đầu, ông ra lệnh rút quân về nước, xây dựng các lớp phòng ngự, sẵn sàng nghênh địch.
Khi đến bờ Bắc sông Như Nguyệt, quân nhà Tống không tấn công ngay mà chờ thủy quân. Tuy nhiên, cánh quân thủy đã bị quân ta chặn đánh trong trận Đông Kênh, không thể tiến sâu vào Đại Việt theo đúng kế hoạch. Chờ không được thủy quân, quân nhà Tống tổ chức hai lần tấn công chiến lũy Như Nguyệt nhưng đều thất bại nặng nề.
Sau hai tháng, chờ quân địch mệt mỏi, Lý Thường Kiệt phát động phản công, giành thắng lớn.
Sau chiến thắng trên sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt biết quân nhà Tống đã lâm vào thế bí, mà người Nam bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất nên sai sứ thần sang "nghị hoà" để quân nhà Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống nhà Tống không chỉ nhờ quân dân đồng lòng, kết hợp công - thủ mà còn nhờ cách đánh vào lòng người của Lý Thường Kiệt.
Thông tin liên quan
<p>Đền thờ Lý Thường Kiệt tại xã Hà Ngọc- huyện Hà Trung- tỉnh Thanh Hoá, xây dựng thế kỷ XVI</p>
Vua Lý Nhân Tông
(1072 – 1128)
Tên huý: Lý Càn Đức
Lý Nhân Tông là con trưởng của Lý Thánh Tông và bà Nguyên phi Ỷ Lan, sau là Thái hậu Linh Nhân.
Thái tử sinh ngày 25 tháng Giêng năm Bính Ngọ (1066), khi Lý Thánh Tông mất, Thái tử lên ngôi Hoàng đế (1072) lúc mới 6 tuổi, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan phải buông rèm nhiếp chính.
Năm 1075, thời Tống Thần Tông, Vương An Thạch làm Tể tướng âm mưu xâm lược nước ta, Thái úy Lý Thường Kiệt biết rõ âm mưu xâm lược của nhà Tống nên đã đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của chúng ở Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung (Quảng Đông, Quảng Tây) rồi chủ động rút quân về nước lập phòng tuyến ở bờ nam sông Cầu để chặn giặc.
Vua Lý Thần Tông
(1128 - 1138)
Tên huý: Lý Dương Hoán
Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của em trai là Sùng Hiền Hầu Dương Hoán lên làm Thái tử, kế vị Hoàng đế là vua Lý Thần Tông.
Vua Lý Thần Tông khuyến khích phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp.
Vua Lý Anh Tông
(1138 - 1175)
Tên huý: Lý Thiên Tộ
Lý Anh Tông là con đích trưởng của Lý Thần Tông và Lê Hoàng hậu.
Ông sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136); lên ngôi Hoàng đế năm 1138, lúc đó mới 3 tuổi.
Lê Hoàng hậu cầm quyền nhiếp chính lại tư thông với Đỗ Anh Vũ làm cho triều đình đổ nát, sau nhờ có các trung thần như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên giữ vững được cơ đồ nhà Lý.
Vua Lý Cao Tông
(1211 - 1224)
Tên huý : Lý Sảm
Thái tử Sảm lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Huệ Tông. Lập Trần Thị Dung làm nguyên phi, phong cho Trần Tự Khánh làm Chương Tín hầu, Tô Trung Tự làm Thái uý, Thuận Lưu Bá, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ.
Thái tử Sảm sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194) con cả của Cao Tông và bà Hoàng hậu họ Đàm.
Vua Huệ Tông thường rượu chè say khướt suốt ngày, bỏ bê triều chính. Huệ Tông không có con trai. Hoàng hậu Trần Thị Dung chỉ sinh được hai con gái.
Con gái lớn là Thuận Thiên công chúa đã gả cho Phụng kiều vương Trần Liễu, công chúa thứ 2 là Phật Kim (công chúa Chiêu Thánh) mới 7 tuổi được làm Thái tử.
Vua Lý Chiêu Hoàng
(1224 - 1225)
Tên huý: Lý Phật Kim
Dưới sự điều phối của Trần Thủ Độ, Lý Huệ Tông bị ép đi tu, nhường ngôi vua cho con gái là công chúa Chiêu Thánh (lúc đó mới 7 tuổi) niên hiệu là Lý Chiêu Hoàng.
Binh quyền về tay Trần Thủ Độ. Cũng dưới sự điều phối của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh (8 tuổi) là con ông Trần Thừa được đưa vào hầu cận Lý Chiêu Hoàng.
Trần Cảnh được Chiêu Hoàng yêu mến, thường hay té nước, ném khăn trêu đùa. Trần Thủ Độ tung tin là Lý Chiêu Hoàng đã lấy chồng là Trần Cảnh.
Ngày 21/10/1225 (năm Ất Dậu), Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, trước bá quan văn võ, Chiêu Hoàng cởi hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, dựng lên triều đại nhà Trần từ đấy.
Quay lại
Tên huý: Lý Công Uẩn
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), mất năm 1028. Mẹ ông họ Phạm và mất khi ông mới được sinh ra. Lý Công Uẩn được thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi.
Lý Công Uẩn thông minh và có chí khí khác người ngay từ nhỏ.
Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ triều Tiền Lê, khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.
Tháng 7/1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến, Nhà vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là Kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay).
Ở ngôi 18 năm (1010-1028), ông có nhiều công chăm lo việc nội trị, củng cố chính quyền, phát triển đạo Phật, mở rộng quan hệ bang giao với các nước láng giềng, giữ gìn toàn vẹn bờ cõi, tạo cơ sở xây dựng quốc gia độc lập, thống nhất.
Quay lại
Tên huý: Lý Phật Mã
Quê quán: Châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Lý Phật Mã sinh năm 1000 và mất năm 1054. Ông là một danh tướng và là con trưởng của Lý Thái Tổ. Mẹ là Lê Thị Phất Ngân con gái của Lê Đại Hành và Dương Vân Nga. Ông
Năm 1020, ông được phong nguyên soái đi đánh Chiêm Thành ở Bố Chính (nay là Quảng Bình), bắt được tướng địch.
Từ khi lên ngôi, Lý Thái Tông tự mình cầm quân đánh dẹp các vụ nổi loạn ở Châu Hoan (1031), châu Định Nguyên (1033), Châu Ái (1035), châu Quảng Nguyên (1039).
Năm 1044, đem quân đánh lại Chiêm Thành, đại thắng ở bờ nam sông Ngũ Bồ (hạ lưu sông Thu Bồn), diệt và bắt sống 35.000 địch, giết vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu, tiến vào thành Phật Thệ (thành Chà Bàn, Quy Nhơn).
Lý Thái Tông là vị vua giỏi chinh chiến, đánh đâu được đó, giữ yên bờ cõi và trị vì đất nước (khuyên dân làm ăn, tự mình cày ruộng để làm gương).
Quay lại
Tên huý: Lý Nhật Tông
Lý Nhật Tông sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023); là con của bà Kim Thiên Thái hậu họ Mai.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”.
Vua Trần Thái Tông
(1225 - 1258)
Vị vua đầu tiên và dũng tướng nhà Trần
Tên huý: Trần Cảnh
Quê quán: Làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), mất năm 1277.
Năm 1225, lên ngôi vua do sự sắp đặt của chú họ là thái sư Trần Thủ Độ.
Năm 1241, cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình thuộc Châu Khâm và Châu Ung nhà Tống để dẹp nạn cướp ở phía bắc.
Năm 1252, cầm quân chống Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi phía nam của tổ quốc.
Năm 1258, chỉ huy trận đánh lớn chống quân Mông Cổ ở Bình Lệ Nguyên (nay thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) và trận đánh bại quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu (khu vực gần cầu Long Biên, Hà Nội), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258).
Dưới thời Trần Thái Tông (1225-1258), các lĩnh vực quân sự, chính trị, văn hóa, tôn giáo, hành chính đều được củng cố và phát triển. Trần Thái Tông còn đặc biệt quan tâm đến việc đắp đê Sông Hồng và những đê sông thuộc Thanh Hóa. Tác giả "Khóa hư lục".
Thông tin liên quan
<p>Mộ của vua Trần Thái Tông được xây dựng vào năm 1277 tại xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình</p>
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Thánh Tông
(1258 - 1278)
Tên huý: Trần Hoàng
Năm 1258, vua Thái Tông nhường ngôi lại cho con mình là Trần Hoảng, tức Trần Thánh Tông, để trở thành Thái Thượng hoàng.
Ông là vị vua nhân hậu, hòa ái; đã cùng với Trần Nhân Tông hai lần đánh tan quân Nguyên - Mông xâm lược trong thời gian làm Thái Thượng hoàng.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Trần Hưng Đạo
( 1228 – 1300)
Tước hiệu Hưng Đạo đại vương
Nguyên danh : Trần Quốc Tuấn
Trần Hưng Đạo là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần.
Trần Hưng Đạo thuộc dòng dõi tôn thất quý tộc nhà Trần. Cuộc đời và sự nghiệp của Hưng Đạo đại vương (Trần Hưng Đạo) gắn liền với cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược Nguyên - Mông của nhân dân Đại Việt.
Vào thế kỷ 13, quân Nguyên - Mông ba lần xâm lược nước ta, nhưng với tầm nhìn chiến lược và sự chỉ huy của nhà quân sự thiên tài Trần Hưng Đạo, quân và dân Đại Việt đã ba lần đánh tan các đạo quân xâm lược hùng mạnh, lập nên những chiến công kỳ vĩ, bảo vệ vững chắc bờ cõi của quê hương, đất nước.
Trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi giặc ra khỏi nước, được phong tước Hưng Đạo Vương.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3 thành công, ông về trí sĩ ở trang viên của mình tại Vạn Kiếp. Tuy nhiên, các vua Trần vẫn thường xuyên đến vấn kế sách.
Ông mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 5 tháng 9 năm 1300), thọ 74 tuổi. Nhân dân đương thời lập đền thờ ông gọi là Đền Kiếp Bạc. Triều đình đã tôn phong ông là Thái sư Thượng phụ, Thượng Quốc công, Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương; nhân dân Đại Việt suy tôn Ngài là Cửu thiên Vũ đế Đức Thánh Trần và lập đền thờ tưởng nhớ công lao to lớn của Ngài ngay trên nền vương phủ là Đền Kiếp Bạc.
Tư tưởng giữ nước lấy dân làm gốc, tri thức quân sự, cách dùng người, lòng trung quân ái quốc của Trần Hưng Đạo luôn là bài học sâu sắc đối với các thế hệ hôm nay và mai sau.
Thông tin liên quan
Ban thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn tại đền Sơn Hải, đường Bạch Đằng, thành phố Hà Nội
<p>Đền Sơn Hải thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, đường Bạch Đằng, thành phố Hà Nội, xây dựng năm 1785</p>
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Tên huý: Trần Khâm
Quê quán: Làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
Trần Nhân Tông sinh ngày 7/12/1258 (tức ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ), mất năm 1308. Ông là con trưởng Trần Thánh Tông, năm 16 tuổi được lập làm thái tử, lên ngôi 1278, lấy niên hiệu Thiệu Bảo (1279 - 1284), Trùng Hưng (1285 - 1293).
Năm 1282, trước nguy cơ xâm lược của quân Nguyên - Mông (Trung Quốc), Trần Nhân Tông triệu tập hội nghị Bình Than (10/1282), cùng thượng hoàng Trần Thánh Tông mở Hội nghị Diên Hồng (1285) tại kinh đô Thăng Long để bàn kế sách chuẩn bị kháng chiến và thống nhất ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc.
Nhờ đoàn kết được lực lượng, dựa vào sức mạnh cả nước, biết sử dụng nhân tài, Trần Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt hai lần đánh bại quân Nguyên - Mông xâm lược (1285 và 1288), thực hiện chính sách ngoại giao khôn khéo với nhà Nguyên - Mông và các nước láng giềng, tạo cơ sở giữ gìn toàn vẹn bờ cõi quốc gia, phát triển đất nước.
Năm 1293, truyền ngôi vua cho con là Trần Anh Tông để làm Thái Thượng hoàng.
Trần Nhân Tông sùng đạo Phật, năm 1299, xuất gia đi tu ở núi Yên Tử (huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) và mất tại đó, được tôn là đệ nhất tổ giáo phái Trúc Lâm.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Anh Tông
(1293 - 1314)
Tên huý: Trần Thuyên
Năm 1293, sau khi đánh tan được quân xâm lược Nguyên - Mông, vua Nhân Tông về làm Thái Thượng hoàng nhường ngôi cho con mình là Trần Thuyên, tức Trần Anh Tông.
Ông cũng là vị vua đức độ, anh minh. Đất nước lúc bấy giờ vua hiền tôi trung nên tiếp tục phát triển thịnh vượng.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Minh Tông
(1314 - 1329)
Tên huý: Trần Mạnh
Năm 1314, vua Anh Tông nhường ngôi hoàng đế lại cho con trai của mình là Trần Mạnh, tức Trần Minh Tông, lui về làm Thái Thượng hoàng.
Ông tiếp tục truyền thống của các tiên đế, coi trọng kẻ sĩ nên đất nước có nhiều hiền tài giúp sức.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Hiến Tông
(1329 - 1341)
Tên huý: Trần Vượng
Năm 1329, Trần Minh Tông lui về làm Thái Thượng hoàng, nhường ngôi cho con trai thứ là Trần Vượng, tức Trần Hiến Tông.
Ông được xem là vị vua “lấy vì” do thực quyền đều do Thái Thượng hoàng Minh Tông nắm giữ.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Dụ Tông
(1341 - 1369)
Tên huý: Trần Hạo
Năm 1341, vua Hiến Tông mất mà không có con nối dõi nên Thái Thượng hoàng Minh Tông đã lập con thứ 10 của mình, em của Hiến Tông là Trần Hạo làm vua, tức Trần Dụ Tông.
Do được Thái Thượng hoàng chăm lo mọi việc từ trong ra ngoài nên vua Dụ Tông chỉ biết ham chơi hưởng lạc.
Năm 1357, Thái Thượng hoàng Minh Tông mất, đất nước bắt đầu rối ren, gian thần hoành hành.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Nghệ Tông
(1370 - 1372)
Tên húy: Cung Định Vương Trần Phủ hoặc Trần Thúc Minh
Năm 1369, Dụ Tông mất, do không có con nên vua lập Nhật Lễ làm vua.
Nhật Lễ là người dị tộc vốn không mang họ Trần, là con riêng của vợ Trần Nguyên Dục – một người anh của Dụ Tông.
Nhật Lễ kém tài, kém đức lại có ý định đổi sang họ tộc của mình là Dương nên khiến quần thần vô cùng bất bình.
Trần Phủ là anh của Dụ Tông đã hợp mưu phế thuất Nhật Lễ để lên ngôi hoàng đế, tức Trần Nghệ Tông.
Vua cung kính, kiêm ước thì có thừa mà quyết đoán, cương nghị thì không đủ nên nạn bên trong đã được dẹp yên nhưng giặc bên ngoài là giặc Chiêm Thành hoành hành ngang ngược.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Duệ Tông
(1372 - 1377)
Tên huý: Trần Kính
Năm 1372, Nghệ Tông nhường ngôi lại cho em là Trần Kính, tức Duệ Tông, rồi lui về làm Thái Thượng hoàng.
Duệ Tông là người có tài nhưng tính tình tự phụ. Trong thời gian này giặc Chiêm Thành vẫn hay xâm lấn, cướp phá ở biên cương.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Phế Đế
(1377 - 1388)
Tên huý: Trần Hiện
Năm 1377, vua Duệ Tông thân chinh dẫn 12 vạn quân đánh nước Chiêm Thành. Do khinh thường quân địch nên vua đã rơi vào bẫy phục kích mà tử trận.
Thái Thượng hoàng Nghệ Tông thương tiếc nên lập Trần Hiện là con vua Duệ Tông làm hoàng đế, tức Trần Phế Đế.
Lúc này bên trong thế lực của họ Hồ đang rất lớn mạnh, bên ngoài phía Nam có giặc Chiêm Thành, phía Bắc có giặc nhà Minh.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Thuận Tông
(1388 - 1398)
Tên huý: Trần Ngung
Phế Đế biết được dã tâm của Hồ Quý Ly nên âm thầm tìm cách trừ khử. Hồ Quý Ly biết được bèn xui với Thượng hoàng Nghệ Tông. Nghệ Tông nghe lời phế bỏ Phế Đế rồi đưa con út của mình là Trần Ngung lên ngôi, tức Trần Thuận Tông. Thuận Tông tuổi nhỏ nhu nhược nên mọi quyền hành đều tập trung vào tay Hồ Quý Ly.
Sau khi giết được vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga thì mặt trận phía Nam xem như tạm ổn nhưng nội loạn bên trong xem ra ngày càng hỗn loạn.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Thiếu Đế
(1398 - 1400)
Tên huý: Trần An
Năm 1398, Hồ Quý Ly ép vua Thuận Tông nhường ngôi lại cho con nhỏ mới được 2 tuổi là Trần An, tức Thiếu Đế.
Họ Hồ còn ép Thuận Tông đi tu và đã cho người theo để ám sát. Thiếu Đế tuổi còn quá nhỏ nên họ Hồ từ đó tung hoàng trong triều đình.
Thiếu Đế ở ngôi được 1 năm thì bị ông ngoại là Hồ Quý Ly cướp ngôi, chấm dứt 175 năm cai trị của nhà Trần.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Thái sư Trần Thủ Độ
(1194 - 1264)
Trần Thủ Độ sinh năm 1194, quê Lưu Gia, Tinh Cương, hương Đa Cương (nay là làng Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Trần Thủ Độ là người có công sáng lập ra triều Trần, được vua phong làm Quốc thượng phụ rời Thái sư. Bằng tài năng, uy tín của mình ông đã củng cố nước Việt vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, quân sự… Ông có vai trò quan trọng trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất (1258), lưu danh với câu nói bất hủ: Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo.
Trần Thủ Độ là công thân sáng lập Triều Trần và nắm quyền lãnh đạo đất nước khoảng gần 40 năm (1226 – 1264). Ông mất tháng Giêng, năm Giáp Tý 1264, thọ 71 tuổi.
Trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ, Trần Thủ Độ có vai trò hết sức quan trọng. Tháng 12 năm Đinh Tỵ (tức tháng 1/1258), quân Mông Cổ, sau khi tiêu diệt nước Đại Lý (Vân Nam), đã tiến vào lưu vực sông Hồng. Thế giặc rất mạnh. Quân Đại Việt bị đánh lui, vua Thái Tông phải bỏ Thăng Long rút xuống phía nam. Vua ngự thuyền nhỏ đến thuyền em ruột là Thái úy Trần Nhật Hạo hỏi kế. Nhật Hạo lấy ngón tay chấm nước viết hai chữ ‘Nhập Tống’ ở mạn thuyền, ý khuyên vua nên chạy sang nhờ vả nước Tống. Vua bèn rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Trần Thủ Độ trả lời:
– Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!
Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, câu trả lời đanh thép ấy của ông đã giữ vững được tinh thần dám đánh và quyết thắng của quân dân Đại Việt trong cuộc phản công quyết liệt đánh vào Đông Bộ Đầu ngày 29/1/1258, buộc quân Mông Cổ phải rút chạy về nước.
Trần Thủ Độ xứng đáng được xếp vào hàng những nhân vật kiệt xuất, đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Quay lại
Tên huý: Trần Cảnh
Quê quán: Làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), mất năm 1277.
Năm 1225, lên ngôi vua do sự sắp đặt của chú họ là thái sư Trần Thủ Độ.
Năm 1241, cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình thuộc Châu Khâm và Châu Ung nhà Tống để dẹp nạn cướp ở phía bắc.
Năm 1252, cầm quân chống Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi phía nam của tổ quốc.
Năm 1258, chỉ huy trận đánh lớn chống quân Mông Cổ ở Bình Lệ Nguyên (nay thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) và trận đánh bại quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu (khu vực gần cầu Long Biên, Hà Nội), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258).
Dưới thời Trần Thái Tông (1225-1258), các lĩnh vực quân sự, chính trị, văn hóa, tôn giáo, hành chính đều được củng cố và phát triển. Trần Thái Tông còn đặc biệt quan tâm đến việc đắp đê Sông Hồng và những đê sông thuộc Thanh Hóa. Tác giả "Khóa hư lục".
Quay lại
Tên huý: Trần Hoàng
Năm 1258, vua Thái Tông nhường ngôi lại cho con mình là Trần Hoảng, tức Trần Thánh Tông, để trở thành Thái Thượng hoàng.
Ông là vị vua nhân hậu, hòa ái; đã cùng với Trần Nhân Tông hai lần đánh tan quân Nguyên - Mông xâm lược trong thời gian làm Thái Thượng hoàng.
Quay lại
Nguyên danh : Trần Quốc Tuấn
Trần Hưng Đạo là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần.
Trần Hưng Đạo thuộc dòng dõi tôn thất quý tộc nhà Trần. Cuộc đời và sự nghiệp của Hưng Đạo đại vương (Trần Hưng Đạo) gắn liền với cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược Nguyên - Mông của nhân dân Đại Việt.
Vào thế kỷ 13, quân Nguyên - Mông ba lần xâm lược nước ta, nhưng với tầm nhìn chiến lược và sự chỉ huy của nhà quân sự thiên tài Trần Hưng Đạo, quân và dân Đại Việt đã ba lần đánh tan các đạo quân xâm lược hùng mạnh, lập nên những chiến công kỳ vĩ, bảo vệ vững chắc bờ cõi của quê hương, đất nước.
Trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi giặc ra khỏi nước, được phong tước Hưng Đạo Vương.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3 thành công, ông về trí sĩ ở trang viên của mình tại Vạn Kiếp. Tuy nhiên, các vua Trần vẫn thường xuyên đến vấn kế sách.
Ông mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 5 tháng 9 năm 1300), thọ 74 tuổi. Nhân dân đương thời lập đền thờ ông gọi là Đền Kiếp Bạc. Triều đình đã tôn phong ông là Thái sư Thượng phụ, Thượng Quốc công, Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương; nhân dân Đại Việt suy tôn Ngài là Cửu thiên Vũ đế Đức Thánh Trần và lập đền thờ tưởng nhớ công lao to lớn của Ngài ngay trên nền vương phủ là Đền Kiếp Bạc.
Tư tưởng giữ nước lấy dân làm gốc, tri thức quân sự, cách dùng người, lòng trung quân ái quốc của Trần Hưng Đạo luôn là bài học sâu sắc đối với các thế hệ hôm nay và mai sau.
Vua Trần Thánh Tông
(1258 - 1278)
Tên huý: Trần Hoàng
Năm 1258, vua Thái Tông nhường ngôi lại cho con mình là Trần Hoảng, tức Trần Thánh Tông, để trở thành Thái Thượng hoàng.
Ông là vị vua nhân hậu, hòa ái; đã cùng với Trần Nhân Tông hai lần đánh tan quân Nguyên - Mông xâm lược trong thời gian làm Thái Thượng hoàng.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Thái Tông
(1225 - 1258)
Vị vua đầu tiên và dũng tướng nhà Trần
Tên huý: Trần Cảnh
Quê quán: Làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), mất năm 1277.
Năm 1225, lên ngôi vua do sự sắp đặt của chú họ là thái sư Trần Thủ Độ.
Năm 1241, cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình thuộc Châu Khâm và Châu Ung nhà Tống để dẹp nạn cướp ở phía bắc.
Năm 1252, cầm quân chống Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi phía nam của tổ quốc.
Năm 1258, chỉ huy trận đánh lớn chống quân Mông Cổ ở Bình Lệ Nguyên (nay thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) và trận đánh bại quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu (khu vực gần cầu Long Biên, Hà Nội), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258).
Dưới thời Trần Thái Tông (1225-1258), các lĩnh vực quân sự, chính trị, văn hóa, tôn giáo, hành chính đều được củng cố và phát triển. Trần Thái Tông còn đặc biệt quan tâm đến việc đắp đê Sông Hồng và những đê sông thuộc Thanh Hóa. Tác giả "Khóa hư lục".
Thông tin liên quan
<p>Mộ của vua Trần Thái Tông được xây dựng vào năm 1277 tại xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình</p>
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Trần Hưng Đạo
( 1228 – 1300)
Tước hiệu Hưng Đạo đại vương
Nguyên danh : Trần Quốc Tuấn
Trần Hưng Đạo là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần.
Trần Hưng Đạo thuộc dòng dõi tôn thất quý tộc nhà Trần. Cuộc đời và sự nghiệp của Hưng Đạo đại vương (Trần Hưng Đạo) gắn liền với cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược Nguyên - Mông của nhân dân Đại Việt.
Vào thế kỷ 13, quân Nguyên - Mông ba lần xâm lược nước ta, nhưng với tầm nhìn chiến lược và sự chỉ huy của nhà quân sự thiên tài Trần Hưng Đạo, quân và dân Đại Việt đã ba lần đánh tan các đạo quân xâm lược hùng mạnh, lập nên những chiến công kỳ vĩ, bảo vệ vững chắc bờ cõi của quê hương, đất nước.
Trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi giặc ra khỏi nước, được phong tước Hưng Đạo Vương.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3 thành công, ông về trí sĩ ở trang viên của mình tại Vạn Kiếp. Tuy nhiên, các vua Trần vẫn thường xuyên đến vấn kế sách.
Ông mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 5 tháng 9 năm 1300), thọ 74 tuổi. Nhân dân đương thời lập đền thờ ông gọi là Đền Kiếp Bạc. Triều đình đã tôn phong ông là Thái sư Thượng phụ, Thượng Quốc công, Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương; nhân dân Đại Việt suy tôn Ngài là Cửu thiên Vũ đế Đức Thánh Trần và lập đền thờ tưởng nhớ công lao to lớn của Ngài ngay trên nền vương phủ là Đền Kiếp Bạc.
Tư tưởng giữ nước lấy dân làm gốc, tri thức quân sự, cách dùng người, lòng trung quân ái quốc của Trần Hưng Đạo luôn là bài học sâu sắc đối với các thế hệ hôm nay và mai sau.
Thông tin liên quan
Ban thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn tại đền Sơn Hải, đường Bạch Đằng, thành phố Hà Nội
<p>Đền Sơn Hải thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, đường Bạch Đằng, thành phố Hà Nội, xây dựng năm 1785</p>
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Tên huý: Trần Khâm
Quê quán: Làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
Trần Nhân Tông sinh ngày 7/12/1258 (tức ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ), mất năm 1308. Ông là con trưởng Trần Thánh Tông, năm 16 tuổi được lập làm thái tử, lên ngôi 1278, lấy niên hiệu Thiệu Bảo (1279 - 1284), Trùng Hưng (1285 - 1293).
Năm 1282, trước nguy cơ xâm lược của quân Nguyên - Mông (Trung Quốc), Trần Nhân Tông triệu tập hội nghị Bình Than (10/1282), cùng thượng hoàng Trần Thánh Tông mở Hội nghị Diên Hồng (1285) tại kinh đô Thăng Long để bàn kế sách chuẩn bị kháng chiến và thống nhất ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc.
Nhờ đoàn kết được lực lượng, dựa vào sức mạnh cả nước, biết sử dụng nhân tài, Trần Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt hai lần đánh bại quân Nguyên - Mông xâm lược (1285 và 1288), thực hiện chính sách ngoại giao khôn khéo với nhà Nguyên - Mông và các nước láng giềng, tạo cơ sở giữ gìn toàn vẹn bờ cõi quốc gia, phát triển đất nước.
Năm 1293, truyền ngôi vua cho con là Trần Anh Tông để làm Thái Thượng hoàng.
Trần Nhân Tông sùng đạo Phật, năm 1299, xuất gia đi tu ở núi Yên Tử (huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) và mất tại đó, được tôn là đệ nhất tổ giáo phái Trúc Lâm.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Anh Tông
(1293 - 1314)
Tên huý: Trần Thuyên
Năm 1293, sau khi đánh tan được quân xâm lược Nguyên - Mông, vua Nhân Tông về làm Thái Thượng hoàng nhường ngôi cho con mình là Trần Thuyên, tức Trần Anh Tông.
Ông cũng là vị vua đức độ, anh minh. Đất nước lúc bấy giờ vua hiền tôi trung nên tiếp tục phát triển thịnh vượng.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Minh Tông
(1314 - 1329)
Tên huý: Trần Mạnh
Năm 1314, vua Anh Tông nhường ngôi hoàng đế lại cho con trai của mình là Trần Mạnh, tức Trần Minh Tông, lui về làm Thái Thượng hoàng.
Ông tiếp tục truyền thống của các tiên đế, coi trọng kẻ sĩ nên đất nước có nhiều hiền tài giúp sức.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Hiến Tông
(1329 - 1341)
Tên huý: Trần Vượng
Năm 1329, Trần Minh Tông lui về làm Thái Thượng hoàng, nhường ngôi cho con trai thứ là Trần Vượng, tức Trần Hiến Tông.
Ông được xem là vị vua “lấy vì” do thực quyền đều do Thái Thượng hoàng Minh Tông nắm giữ.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Dụ Tông
(1341 - 1369)
Tên huý: Trần Hạo
Năm 1341, vua Hiến Tông mất mà không có con nối dõi nên Thái Thượng hoàng Minh Tông đã lập con thứ 10 của mình, em của Hiến Tông là Trần Hạo làm vua, tức Trần Dụ Tông.
Do được Thái Thượng hoàng chăm lo mọi việc từ trong ra ngoài nên vua Dụ Tông chỉ biết ham chơi hưởng lạc.
Năm 1357, Thái Thượng hoàng Minh Tông mất, đất nước bắt đầu rối ren, gian thần hoành hành.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Nghệ Tông
(1370 - 1372)
Tên húy: Cung Định Vương Trần Phủ hoặc Trần Thúc Minh
Năm 1369, Dụ Tông mất, do không có con nên vua lập Nhật Lễ làm vua.
Nhật Lễ là người dị tộc vốn không mang họ Trần, là con riêng của vợ Trần Nguyên Dục – một người anh của Dụ Tông.
Nhật Lễ kém tài, kém đức lại có ý định đổi sang họ tộc của mình là Dương nên khiến quần thần vô cùng bất bình.
Trần Phủ là anh của Dụ Tông đã hợp mưu phế thuất Nhật Lễ để lên ngôi hoàng đế, tức Trần Nghệ Tông.
Vua cung kính, kiêm ước thì có thừa mà quyết đoán, cương nghị thì không đủ nên nạn bên trong đã được dẹp yên nhưng giặc bên ngoài là giặc Chiêm Thành hoành hành ngang ngược.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Duệ Tông
(1372 - 1377)
Tên huý: Trần Kính
Năm 1372, Nghệ Tông nhường ngôi lại cho em là Trần Kính, tức Duệ Tông, rồi lui về làm Thái Thượng hoàng.
Duệ Tông là người có tài nhưng tính tình tự phụ. Trong thời gian này giặc Chiêm Thành vẫn hay xâm lấn, cướp phá ở biên cương.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Phế Đế
(1377 - 1388)
Tên huý: Trần Hiện
Năm 1377, vua Duệ Tông thân chinh dẫn 12 vạn quân đánh nước Chiêm Thành. Do khinh thường quân địch nên vua đã rơi vào bẫy phục kích mà tử trận.
Thái Thượng hoàng Nghệ Tông thương tiếc nên lập Trần Hiện là con vua Duệ Tông làm hoàng đế, tức Trần Phế Đế.
Lúc này bên trong thế lực của họ Hồ đang rất lớn mạnh, bên ngoài phía Nam có giặc Chiêm Thành, phía Bắc có giặc nhà Minh.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Thuận Tông
(1388 - 1398)
Tên huý: Trần Ngung
Phế Đế biết được dã tâm của Hồ Quý Ly nên âm thầm tìm cách trừ khử. Hồ Quý Ly biết được bèn xui với Thượng hoàng Nghệ Tông. Nghệ Tông nghe lời phế bỏ Phế Đế rồi đưa con út của mình là Trần Ngung lên ngôi, tức Trần Thuận Tông. Thuận Tông tuổi nhỏ nhu nhược nên mọi quyền hành đều tập trung vào tay Hồ Quý Ly.
Sau khi giết được vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga thì mặt trận phía Nam xem như tạm ổn nhưng nội loạn bên trong xem ra ngày càng hỗn loạn.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Thiếu Đế
(1398 - 1400)
Tên huý: Trần An
Năm 1398, Hồ Quý Ly ép vua Thuận Tông nhường ngôi lại cho con nhỏ mới được 2 tuổi là Trần An, tức Thiếu Đế.
Họ Hồ còn ép Thuận Tông đi tu và đã cho người theo để ám sát. Thiếu Đế tuổi còn quá nhỏ nên họ Hồ từ đó tung hoàng trong triều đình.
Thiếu Đế ở ngôi được 1 năm thì bị ông ngoại là Hồ Quý Ly cướp ngôi, chấm dứt 175 năm cai trị của nhà Trần.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Thái sư Trần Thủ Độ
(1194 - 1264)
Trần Thủ Độ sinh năm 1194, quê Lưu Gia, Tinh Cương, hương Đa Cương (nay là làng Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Trần Thủ Độ là người có công sáng lập ra triều Trần, được vua phong làm Quốc thượng phụ rời Thái sư. Bằng tài năng, uy tín của mình ông đã củng cố nước Việt vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, quân sự… Ông có vai trò quan trọng trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất (1258), lưu danh với câu nói bất hủ: Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo.
Trần Thủ Độ là công thân sáng lập Triều Trần và nắm quyền lãnh đạo đất nước khoảng gần 40 năm (1226 – 1264). Ông mất tháng Giêng, năm Giáp Tý 1264, thọ 71 tuổi.
Trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ, Trần Thủ Độ có vai trò hết sức quan trọng. Tháng 12 năm Đinh Tỵ (tức tháng 1/1258), quân Mông Cổ, sau khi tiêu diệt nước Đại Lý (Vân Nam), đã tiến vào lưu vực sông Hồng. Thế giặc rất mạnh. Quân Đại Việt bị đánh lui, vua Thái Tông phải bỏ Thăng Long rút xuống phía nam. Vua ngự thuyền nhỏ đến thuyền em ruột là Thái úy Trần Nhật Hạo hỏi kế. Nhật Hạo lấy ngón tay chấm nước viết hai chữ ‘Nhập Tống’ ở mạn thuyền, ý khuyên vua nên chạy sang nhờ vả nước Tống. Vua bèn rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Trần Thủ Độ trả lời:
– Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!
Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, câu trả lời đanh thép ấy của ông đã giữ vững được tinh thần dám đánh và quyết thắng của quân dân Đại Việt trong cuộc phản công quyết liệt đánh vào Đông Bộ Đầu ngày 29/1/1258, buộc quân Mông Cổ phải rút chạy về nước.
Trần Thủ Độ xứng đáng được xếp vào hàng những nhân vật kiệt xuất, đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Quay lại
Tên huý: Trần Cảnh
Quê quán: Làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), mất năm 1277.
Năm 1225, lên ngôi vua do sự sắp đặt của chú họ là thái sư Trần Thủ Độ.
Năm 1241, cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình thuộc Châu Khâm và Châu Ung nhà Tống để dẹp nạn cướp ở phía bắc.
Năm 1252, cầm quân chống Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi phía nam của tổ quốc.
Năm 1258, chỉ huy trận đánh lớn chống quân Mông Cổ ở Bình Lệ Nguyên (nay thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) và trận đánh bại quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu (khu vực gần cầu Long Biên, Hà Nội), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258).
Dưới thời Trần Thái Tông (1225-1258), các lĩnh vực quân sự, chính trị, văn hóa, tôn giáo, hành chính đều được củng cố và phát triển. Trần Thái Tông còn đặc biệt quan tâm đến việc đắp đê Sông Hồng và những đê sông thuộc Thanh Hóa. Tác giả "Khóa hư lục".
Quay lại
Tên huý: Trần Hoàng
Năm 1258, vua Thái Tông nhường ngôi lại cho con mình là Trần Hoảng, tức Trần Thánh Tông, để trở thành Thái Thượng hoàng.
Ông là vị vua nhân hậu, hòa ái; đã cùng với Trần Nhân Tông hai lần đánh tan quân Nguyên - Mông xâm lược trong thời gian làm Thái Thượng hoàng.
Quay lại
Nguyên danh : Trần Quốc Tuấn
Trần Hưng Đạo là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần.
Trần Hưng Đạo thuộc dòng dõi tôn thất quý tộc nhà Trần. Cuộc đời và sự nghiệp của Hưng Đạo đại vương (Trần Hưng Đạo) gắn liền với cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược Nguyên - Mông của nhân dân Đại Việt.
Vào thế kỷ 13, quân Nguyên - Mông ba lần xâm lược nước ta, nhưng với tầm nhìn chiến lược và sự chỉ huy của nhà quân sự thiên tài Trần Hưng Đạo, quân và dân Đại Việt đã ba lần đánh tan các đạo quân xâm lược hùng mạnh, lập nên những chiến công kỳ vĩ, bảo vệ vững chắc bờ cõi của quê hương, đất nước.
Trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi giặc ra khỏi nước, được phong tước Hưng Đạo Vương.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3 thành công, ông về trí sĩ ở trang viên của mình tại Vạn Kiếp. Tuy nhiên, các vua Trần vẫn thường xuyên đến vấn kế sách.
Ông mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 5 tháng 9 năm 1300), thọ 74 tuổi. Nhân dân đương thời lập đền thờ ông gọi là Đền Kiếp Bạc. Triều đình đã tôn phong ông là Thái sư Thượng phụ, Thượng Quốc công, Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương; nhân dân Đại Việt suy tôn Ngài là Cửu thiên Vũ đế Đức Thánh Trần và lập đền thờ tưởng nhớ công lao to lớn của Ngài ngay trên nền vương phủ là Đền Kiếp Bạc.
Tư tưởng giữ nước lấy dân làm gốc, tri thức quân sự, cách dùng người, lòng trung quân ái quốc của Trần Hưng Đạo luôn là bài học sâu sắc đối với các thế hệ hôm nay và mai sau.
Trần Hưng Đạo
( 1228 – 1300)
Tước hiệu Hưng Đạo đại vương
Nguyên danh : Trần Quốc Tuấn
Trần Hưng Đạo là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần.
Trần Hưng Đạo thuộc dòng dõi tôn thất quý tộc nhà Trần. Cuộc đời và sự nghiệp của Hưng Đạo đại vương (Trần Hưng Đạo) gắn liền với cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược Nguyên - Mông của nhân dân Đại Việt.
Vào thế kỷ 13, quân Nguyên - Mông ba lần xâm lược nước ta, nhưng với tầm nhìn chiến lược và sự chỉ huy của nhà quân sự thiên tài Trần Hưng Đạo, quân và dân Đại Việt đã ba lần đánh tan các đạo quân xâm lược hùng mạnh, lập nên những chiến công kỳ vĩ, bảo vệ vững chắc bờ cõi của quê hương, đất nước.
Trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi giặc ra khỏi nước, được phong tước Hưng Đạo Vương.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3 thành công, ông về trí sĩ ở trang viên của mình tại Vạn Kiếp. Tuy nhiên, các vua Trần vẫn thường xuyên đến vấn kế sách.
Ông mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 5 tháng 9 năm 1300), thọ 74 tuổi. Nhân dân đương thời lập đền thờ ông gọi là Đền Kiếp Bạc. Triều đình đã tôn phong ông là Thái sư Thượng phụ, Thượng Quốc công, Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương; nhân dân Đại Việt suy tôn Ngài là Cửu thiên Vũ đế Đức Thánh Trần và lập đền thờ tưởng nhớ công lao to lớn của Ngài ngay trên nền vương phủ là Đền Kiếp Bạc.
Tư tưởng giữ nước lấy dân làm gốc, tri thức quân sự, cách dùng người, lòng trung quân ái quốc của Trần Hưng Đạo luôn là bài học sâu sắc đối với các thế hệ hôm nay và mai sau.
Thông tin liên quan
Ban thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn tại đền Sơn Hải, đường Bạch Đằng, thành phố Hà Nội
<p>Đền Sơn Hải thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, đường Bạch Đằng, thành phố Hà Nội, xây dựng năm 1785</p>
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Thái Tông
(1225 - 1258)
Vị vua đầu tiên và dũng tướng nhà Trần
Tên huý: Trần Cảnh
Quê quán: Làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), mất năm 1277.
Năm 1225, lên ngôi vua do sự sắp đặt của chú họ là thái sư Trần Thủ Độ.
Năm 1241, cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình thuộc Châu Khâm và Châu Ung nhà Tống để dẹp nạn cướp ở phía bắc.
Năm 1252, cầm quân chống Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi phía nam của tổ quốc.
Năm 1258, chỉ huy trận đánh lớn chống quân Mông Cổ ở Bình Lệ Nguyên (nay thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) và trận đánh bại quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu (khu vực gần cầu Long Biên, Hà Nội), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258).
Dưới thời Trần Thái Tông (1225-1258), các lĩnh vực quân sự, chính trị, văn hóa, tôn giáo, hành chính đều được củng cố và phát triển. Trần Thái Tông còn đặc biệt quan tâm đến việc đắp đê Sông Hồng và những đê sông thuộc Thanh Hóa. Tác giả "Khóa hư lục".
Thông tin liên quan
<p>Mộ của vua Trần Thái Tông được xây dựng vào năm 1277 tại xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình</p>
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Thánh Tông
(1258 - 1278)
Tên huý: Trần Hoàng
Năm 1258, vua Thái Tông nhường ngôi lại cho con mình là Trần Hoảng, tức Trần Thánh Tông, để trở thành Thái Thượng hoàng.
Ông là vị vua nhân hậu, hòa ái; đã cùng với Trần Nhân Tông hai lần đánh tan quân Nguyên - Mông xâm lược trong thời gian làm Thái Thượng hoàng.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Tên huý: Trần Khâm
Quê quán: Làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
Trần Nhân Tông sinh ngày 7/12/1258 (tức ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ), mất năm 1308. Ông là con trưởng Trần Thánh Tông, năm 16 tuổi được lập làm thái tử, lên ngôi 1278, lấy niên hiệu Thiệu Bảo (1279 - 1284), Trùng Hưng (1285 - 1293).
Năm 1282, trước nguy cơ xâm lược của quân Nguyên - Mông (Trung Quốc), Trần Nhân Tông triệu tập hội nghị Bình Than (10/1282), cùng thượng hoàng Trần Thánh Tông mở Hội nghị Diên Hồng (1285) tại kinh đô Thăng Long để bàn kế sách chuẩn bị kháng chiến và thống nhất ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc.
Nhờ đoàn kết được lực lượng, dựa vào sức mạnh cả nước, biết sử dụng nhân tài, Trần Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt hai lần đánh bại quân Nguyên - Mông xâm lược (1285 và 1288), thực hiện chính sách ngoại giao khôn khéo với nhà Nguyên - Mông và các nước láng giềng, tạo cơ sở giữ gìn toàn vẹn bờ cõi quốc gia, phát triển đất nước.
Năm 1293, truyền ngôi vua cho con là Trần Anh Tông để làm Thái Thượng hoàng.
Trần Nhân Tông sùng đạo Phật, năm 1299, xuất gia đi tu ở núi Yên Tử (huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) và mất tại đó, được tôn là đệ nhất tổ giáo phái Trúc Lâm.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Anh Tông
(1293 - 1314)
Tên huý: Trần Thuyên
Năm 1293, sau khi đánh tan được quân xâm lược Nguyên - Mông, vua Nhân Tông về làm Thái Thượng hoàng nhường ngôi cho con mình là Trần Thuyên, tức Trần Anh Tông.
Ông cũng là vị vua đức độ, anh minh. Đất nước lúc bấy giờ vua hiền tôi trung nên tiếp tục phát triển thịnh vượng.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Minh Tông
(1314 - 1329)
Tên huý: Trần Mạnh
Năm 1314, vua Anh Tông nhường ngôi hoàng đế lại cho con trai của mình là Trần Mạnh, tức Trần Minh Tông, lui về làm Thái Thượng hoàng.
Ông tiếp tục truyền thống của các tiên đế, coi trọng kẻ sĩ nên đất nước có nhiều hiền tài giúp sức.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Hiến Tông
(1329 - 1341)
Tên huý: Trần Vượng
Năm 1329, Trần Minh Tông lui về làm Thái Thượng hoàng, nhường ngôi cho con trai thứ là Trần Vượng, tức Trần Hiến Tông.
Ông được xem là vị vua “lấy vì” do thực quyền đều do Thái Thượng hoàng Minh Tông nắm giữ.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Dụ Tông
(1341 - 1369)
Tên huý: Trần Hạo
Năm 1341, vua Hiến Tông mất mà không có con nối dõi nên Thái Thượng hoàng Minh Tông đã lập con thứ 10 của mình, em của Hiến Tông là Trần Hạo làm vua, tức Trần Dụ Tông.
Do được Thái Thượng hoàng chăm lo mọi việc từ trong ra ngoài nên vua Dụ Tông chỉ biết ham chơi hưởng lạc.
Năm 1357, Thái Thượng hoàng Minh Tông mất, đất nước bắt đầu rối ren, gian thần hoành hành.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Nghệ Tông
(1370 - 1372)
Tên húy: Cung Định Vương Trần Phủ hoặc Trần Thúc Minh
Năm 1369, Dụ Tông mất, do không có con nên vua lập Nhật Lễ làm vua.
Nhật Lễ là người dị tộc vốn không mang họ Trần, là con riêng của vợ Trần Nguyên Dục – một người anh của Dụ Tông.
Nhật Lễ kém tài, kém đức lại có ý định đổi sang họ tộc của mình là Dương nên khiến quần thần vô cùng bất bình.
Trần Phủ là anh của Dụ Tông đã hợp mưu phế thuất Nhật Lễ để lên ngôi hoàng đế, tức Trần Nghệ Tông.
Vua cung kính, kiêm ước thì có thừa mà quyết đoán, cương nghị thì không đủ nên nạn bên trong đã được dẹp yên nhưng giặc bên ngoài là giặc Chiêm Thành hoành hành ngang ngược.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Duệ Tông
(1372 - 1377)
Tên huý: Trần Kính
Năm 1372, Nghệ Tông nhường ngôi lại cho em là Trần Kính, tức Duệ Tông, rồi lui về làm Thái Thượng hoàng.
Duệ Tông là người có tài nhưng tính tình tự phụ. Trong thời gian này giặc Chiêm Thành vẫn hay xâm lấn, cướp phá ở biên cương.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Phế Đế
(1377 - 1388)
Tên huý: Trần Hiện
Năm 1377, vua Duệ Tông thân chinh dẫn 12 vạn quân đánh nước Chiêm Thành. Do khinh thường quân địch nên vua đã rơi vào bẫy phục kích mà tử trận.
Thái Thượng hoàng Nghệ Tông thương tiếc nên lập Trần Hiện là con vua Duệ Tông làm hoàng đế, tức Trần Phế Đế.
Lúc này bên trong thế lực của họ Hồ đang rất lớn mạnh, bên ngoài phía Nam có giặc Chiêm Thành, phía Bắc có giặc nhà Minh.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Thuận Tông
(1388 - 1398)
Tên huý: Trần Ngung
Phế Đế biết được dã tâm của Hồ Quý Ly nên âm thầm tìm cách trừ khử. Hồ Quý Ly biết được bèn xui với Thượng hoàng Nghệ Tông. Nghệ Tông nghe lời phế bỏ Phế Đế rồi đưa con út của mình là Trần Ngung lên ngôi, tức Trần Thuận Tông. Thuận Tông tuổi nhỏ nhu nhược nên mọi quyền hành đều tập trung vào tay Hồ Quý Ly.
Sau khi giết được vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga thì mặt trận phía Nam xem như tạm ổn nhưng nội loạn bên trong xem ra ngày càng hỗn loạn.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Vua Trần Thiếu Đế
(1398 - 1400)
Tên huý: Trần An
Năm 1398, Hồ Quý Ly ép vua Thuận Tông nhường ngôi lại cho con nhỏ mới được 2 tuổi là Trần An, tức Thiếu Đế.
Họ Hồ còn ép Thuận Tông đi tu và đã cho người theo để ám sát. Thiếu Đế tuổi còn quá nhỏ nên họ Hồ từ đó tung hoàng trong triều đình.
Thiếu Đế ở ngôi được 1 năm thì bị ông ngoại là Hồ Quý Ly cướp ngôi, chấm dứt 175 năm cai trị của nhà Trần.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Thái sư Trần Thủ Độ
(1194 - 1264)
Trần Thủ Độ sinh năm 1194, quê Lưu Gia, Tinh Cương, hương Đa Cương (nay là làng Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Trần Thủ Độ là người có công sáng lập ra triều Trần, được vua phong làm Quốc thượng phụ rời Thái sư. Bằng tài năng, uy tín của mình ông đã củng cố nước Việt vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, quân sự… Ông có vai trò quan trọng trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất (1258), lưu danh với câu nói bất hủ: Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo.
Trần Thủ Độ là công thân sáng lập Triều Trần và nắm quyền lãnh đạo đất nước khoảng gần 40 năm (1226 – 1264). Ông mất tháng Giêng, năm Giáp Tý 1264, thọ 71 tuổi.
Trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ, Trần Thủ Độ có vai trò hết sức quan trọng. Tháng 12 năm Đinh Tỵ (tức tháng 1/1258), quân Mông Cổ, sau khi tiêu diệt nước Đại Lý (Vân Nam), đã tiến vào lưu vực sông Hồng. Thế giặc rất mạnh. Quân Đại Việt bị đánh lui, vua Thái Tông phải bỏ Thăng Long rút xuống phía nam. Vua ngự thuyền nhỏ đến thuyền em ruột là Thái úy Trần Nhật Hạo hỏi kế. Nhật Hạo lấy ngón tay chấm nước viết hai chữ ‘Nhập Tống’ ở mạn thuyền, ý khuyên vua nên chạy sang nhờ vả nước Tống. Vua bèn rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Trần Thủ Độ trả lời:
– Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!
Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, câu trả lời đanh thép ấy của ông đã giữ vững được tinh thần dám đánh và quyết thắng của quân dân Đại Việt trong cuộc phản công quyết liệt đánh vào Đông Bộ Đầu ngày 29/1/1258, buộc quân Mông Cổ phải rút chạy về nước.
Trần Thủ Độ xứng đáng được xếp vào hàng những nhân vật kiệt xuất, đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc.
Vua Trần Nhân Tông
(1278 - 1293)
Tượng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang, chùa Yên Hoa, khu di tích Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, niên đại thế kỷ XVII.
Vị vua thứ ba của nhà Trần
Quay lại
Tên huý: Trần Cảnh
Quê quán: Làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), mất năm 1277.
Năm 1225, lên ngôi vua do sự sắp đặt của chú họ là thái sư Trần Thủ Độ.
Năm 1241, cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình thuộc Châu Khâm và Châu Ung nhà Tống để dẹp nạn cướp ở phía bắc.
Năm 1252, cầm quân chống Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi phía nam của tổ quốc.
Năm 1258, chỉ huy trận đánh lớn chống quân Mông Cổ ở Bình Lệ Nguyên (nay thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) và trận đánh bại quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu (khu vực gần cầu Long Biên, Hà Nội), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258).
Dưới thời Trần Thái Tông (1225-1258), các lĩnh vực quân sự, chính trị, văn hóa, tôn giáo, hành chính đều được củng cố và phát triển. Trần Thái Tông còn đặc biệt quan tâm đến việc đắp đê Sông Hồng và những đê sông thuộc Thanh Hóa. Tác giả "Khóa hư lục".
Quay lại
Tên huý: Trần Hoàng
Năm 1258, vua Thái Tông nhường ngôi lại cho con mình là Trần Hoảng, tức Trần Thánh Tông, để trở thành Thái Thượng hoàng.
Ông là vị vua nhân hậu, hòa ái; đã cùng với Trần Nhân Tông hai lần đánh tan quân Nguyên - Mông xâm lược trong thời gian làm Thái Thượng hoàng.
Quay lại
Nguyên danh : Trần Quốc Tuấn
Trần Hưng Đạo là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần.
Trần Hưng Đạo thuộc dòng dõi tôn thất quý tộc nhà Trần. Cuộc đời và sự nghiệp của Hưng Đạo đại vương (Trần Hưng Đạo) gắn liền với cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược Nguyên - Mông của nhân dân Đại Việt.
Vào thế kỷ 13, quân Nguyên - Mông ba lần xâm lược nước ta, nhưng với tầm nhìn chiến lược và sự chỉ huy của nhà quân sự thiên tài Trần Hưng Đạo, quân và dân Đại Việt đã ba lần đánh tan các đạo quân xâm lược hùng mạnh, lập nên những chiến công kỳ vĩ, bảo vệ vững chắc bờ cõi của quê hương, đất nước.
Trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi giặc ra khỏi nước, được phong tước Hưng Đạo Vương.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3 thành công, ông về trí sĩ ở trang viên của mình tại Vạn Kiếp. Tuy nhiên, các vua Trần vẫn thường xuyên đến vấn kế sách.
Ông mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 5 tháng 9 năm 1300), thọ 74 tuổi. Nhân dân đương thời lập đền thờ ông gọi là Đền Kiếp Bạc. Triều đình đã tôn phong ông là Thái sư Thượng phụ, Thượng Quốc công, Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương; nhân dân Đại Việt suy tôn Ngài là Cửu thiên Vũ đế Đức Thánh Trần và lập đền thờ tưởng nhớ công lao to lớn của Ngài ngay trên nền vương phủ là Đền Kiếp Bạc.
Tư tưởng giữ nước lấy dân làm gốc, tri thức quân sự, cách dùng người, lòng trung quân ái quốc của Trần Hưng Đạo luôn là bài học sâu sắc đối với các thế hệ hôm nay và mai sau.
Hồ Quý Ly
(1400 - 1401)
Vị vua đầu tiên nhà Hồ
Tên huý: Hồ Nhất Nguyên
Hồ Quý Ly sinh năm 1336 tại Quỳnh Lưu (Nghệ An), sau dời ra làng Đại Lại, phủ Thanh Hoa (nay là Kim Âu, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Lúc nhỏ, ông làm con nuôi gia đình Lê Huấn nên mang họ Lê, lớn lên được vua Trần Nghệ Tông tin dùng, trải qua các chức khu mật viện đại sứ (1371), tiểu tư không (1379), thống chế đô hải tây (1380).
Năm 1387, được phong đồng bình chương sự và là người có thế lực lớn trong triều lúc đó. Năm 1395, sau khi Trần Nghệ Tông mất, được cử làm phụ chính thái sư, nắm quyền nhiếp chính.
Năm 1400, truất ngôi vua Trần Thiếu Đế, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu, năm sau nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên làm Thái Thượng hoàng nhưng vẫn nắm thực quyền.
Ông thi hành nhiều chính sách cải cách xã hội (hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy, định lại chế độ thuế khóa, chấn chỉnh việc học hành thi cử...), chăm lo việc phòng thủ đất nước (tăng cường và tổ chức lại quân đội , mở xưởng rèn đúc vũ khí, đóng tàu thuyền, xây đắp hệ thống thành lũy, củng cố các nơi hiểm yếu...).
Năm 1406, tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Minh (Trung Quốc) xâm lược, lúc đầu giành được một số thắng lợi, nhưng sau bị các tướng Minh là Trương Phụ, Mộc Thạnh đánh bại, phải lui vào giữ Thanh Hóa rồi chạy về cửa biển Kì La (Hà Tĩnh).
Tháng 6/1407, bị quân Minh bắt đưa về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc) và mất tại đó.
Hồ Hán Thương
(1401 - 1407)
Năm 1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi lui về làm Thái Thượng hoàng.
Năm 1406, nhà Minh lấy cớ “phò Trần diệt Hồ” đã đem quân sang đánh nước Đại Ngu. Cha con họ Hồ không chống nổi sức địch.
Năm 1407, cha con Hồ Quý Ly bị bắt và giết chết.
Quay lại
Tên huý: Hồ Nhất Nguyên
Hồ Quý Ly sinh năm 1336 tại Quỳnh Lưu (Nghệ An), sau dời ra làng Đại Lại, phủ Thanh Hoa (nay là Kim Âu, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Lúc nhỏ, ông làm con nuôi gia đình Lê Huấn nên mang họ Lê, lớn lên được vua Trần Nghệ Tông tin dùng, trải qua các chức khu mật viện đại sứ (1371), tiểu tư không (1379), thống chế đô hải tây (1380).
Năm 1387, được phong đồng bình chương sự và là người có thế lực lớn trong triều lúc đó. Năm 1395, sau khi Trần Nghệ Tông mất, được cử làm phụ chính thái sư, nắm quyền nhiếp chính.
Năm 1400, truất ngôi vua Trần Thiếu Đế, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu, năm sau nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên làm Thái Thượng hoàng nhưng vẫn nắm thực quyền.
Ông thi hành nhiều chính sách cải cách xã hội (hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy, định lại chế độ thuế khóa, chấn chỉnh việc học hành thi cử...), chăm lo việc phòng thủ đất nước (tăng cường và tổ chức lại quân đội , mở xưởng rèn đúc vũ khí, đóng tàu thuyền, xây đắp hệ thống thành lũy, củng cố các nơi hiểm yếu...).
Năm 1406, tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Minh (Trung Quốc) xâm lược, lúc đầu giành được một số thắng lợi, nhưng sau bị các tướng Minh là Trương Phụ, Mộc Thạnh đánh bại, phải lui vào giữ Thanh Hóa rồi chạy về cửa biển Kì La (Hà Tĩnh).
Tháng 6/1407, bị quân Minh bắt đưa về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc) và mất tại đó.
Quay lại
Năm 1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi lui về làm Thái Thượng hoàng.
Năm 1406, nhà Minh lấy cớ “phò Trần diệt Hồ” đã đem quân sang đánh nước Đại Ngu. Cha con họ Hồ không chống nổi sức địch.
Năm 1407, cha con Hồ Quý Ly bị bắt và giết chết.
Hồ Hán Thương
(1401 - 1407)
Năm 1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi lui về làm Thái Thượng hoàng.
Năm 1406, nhà Minh lấy cớ “phò Trần diệt Hồ” đã đem quân sang đánh nước Đại Ngu. Cha con họ Hồ không chống nổi sức địch.
Năm 1407, cha con Hồ Quý Ly bị bắt và giết chết.
Hồ Quý Ly
(1400 - 1401)
Vị vua đầu tiên nhà Hồ
Tên huý: Hồ Nhất Nguyên
Hồ Quý Ly sinh năm 1336 tại Quỳnh Lưu (Nghệ An), sau dời ra làng Đại Lại, phủ Thanh Hoa (nay là Kim Âu, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Lúc nhỏ, ông làm con nuôi gia đình Lê Huấn nên mang họ Lê, lớn lên được vua Trần Nghệ Tông tin dùng, trải qua các chức khu mật viện đại sứ (1371), tiểu tư không (1379), thống chế đô hải tây (1380).
Năm 1387, được phong đồng bình chương sự và là người có thế lực lớn trong triều lúc đó. Năm 1395, sau khi Trần Nghệ Tông mất, được cử làm phụ chính thái sư, nắm quyền nhiếp chính.
Năm 1400, truất ngôi vua Trần Thiếu Đế, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu, năm sau nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên làm Thái Thượng hoàng nhưng vẫn nắm thực quyền.
Ông thi hành nhiều chính sách cải cách xã hội (hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy, định lại chế độ thuế khóa, chấn chỉnh việc học hành thi cử...), chăm lo việc phòng thủ đất nước (tăng cường và tổ chức lại quân đội , mở xưởng rèn đúc vũ khí, đóng tàu thuyền, xây đắp hệ thống thành lũy, củng cố các nơi hiểm yếu...).
Năm 1406, tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Minh (Trung Quốc) xâm lược, lúc đầu giành được một số thắng lợi, nhưng sau bị các tướng Minh là Trương Phụ, Mộc Thạnh đánh bại, phải lui vào giữ Thanh Hóa rồi chạy về cửa biển Kì La (Hà Tĩnh).
Tháng 6/1407, bị quân Minh bắt đưa về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc) và mất tại đó.
Quay lại
Tên huý: Hồ Nhất Nguyên
Hồ Quý Ly sinh năm 1336 tại Quỳnh Lưu (Nghệ An), sau dời ra làng Đại Lại, phủ Thanh Hoa (nay là Kim Âu, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Lúc nhỏ, ông làm con nuôi gia đình Lê Huấn nên mang họ Lê, lớn lên được vua Trần Nghệ Tông tin dùng, trải qua các chức khu mật viện đại sứ (1371), tiểu tư không (1379), thống chế đô hải tây (1380).
Năm 1387, được phong đồng bình chương sự và là người có thế lực lớn trong triều lúc đó. Năm 1395, sau khi Trần Nghệ Tông mất, được cử làm phụ chính thái sư, nắm quyền nhiếp chính.
Năm 1400, truất ngôi vua Trần Thiếu Đế, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu, năm sau nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên làm Thái Thượng hoàng nhưng vẫn nắm thực quyền.
Ông thi hành nhiều chính sách cải cách xã hội (hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy, định lại chế độ thuế khóa, chấn chỉnh việc học hành thi cử...), chăm lo việc phòng thủ đất nước (tăng cường và tổ chức lại quân đội , mở xưởng rèn đúc vũ khí, đóng tàu thuyền, xây đắp hệ thống thành lũy, củng cố các nơi hiểm yếu...).
Năm 1406, tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Minh (Trung Quốc) xâm lược, lúc đầu giành được một số thắng lợi, nhưng sau bị các tướng Minh là Trương Phụ, Mộc Thạnh đánh bại, phải lui vào giữ Thanh Hóa rồi chạy về cửa biển Kì La (Hà Tĩnh).
Tháng 6/1407, bị quân Minh bắt đưa về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc) và mất tại đó.
Quay lại
Năm 1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi lui về làm Thái Thượng hoàng.
Năm 1406, nhà Minh lấy cớ “phò Trần diệt Hồ” đã đem quân sang đánh nước Đại Ngu. Cha con họ Hồ không chống nổi sức địch.
Năm 1407, cha con Hồ Quý Ly bị bắt và giết chết.
Vua Lê Thái Tổ
(1428 - 1433)
Tên huý: Lê Lợi
Lê Lợi sinh ngày 10/9/1385 (6/8 năm Ất Sửu); là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương. Người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá.
Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là người phi thường.
Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn. Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Thông tin liên quan
<p>Tượng Lê Lợi tại Quảng trường Thành phố Thanh Hóa được xây dựng vào tháng 11/2004</p>
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Thái Tông
(1433 – 1442)
Tên huý: Lê Nguyên Long
Năm 1433, vua Lê Thái Tổ băng hà, con thứ là thái tử Lê Nguyên Long lên kế ngôi khi được 11 tuổi.
Từ nhỏ ông đã tỏ ra là vị vua anh minh sáng suốt, có tài nhìn xa trông rộng, tuy tuổi nhỏ nhưng tự mình cầm quyền chấp chính.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Nhân Tông
(1442 – 1459)
Tên huý: Lê Bang Cơ
Năm 1442, vua Lê Thái Tông băng hà một cách bí ẩn tại Lệ Chi Viên, thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi vua, tức Lê Nhân Tông, thái hậu là Nguyễn Thị Anh nhiếp chính.
Ông là vị vua nhân từ, bác ái, trọng đãi công thần, hiếu đễ.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Tên huý: Lê Tư Thành
Lê Thánh Tông là một bậc minh quân và là vị vua đã đưa nước Đại Việt phát triển đến thời cực thịnh.
Bên trong ông chú trọng giáo dục, trọng dụng hiền tài. Bên ngoài ông chú trọng mở mang bờ cõi. Trong thời kỳ này, với việc Tây tiến và Nam tiến của mình, Đại Việt đã mở mang bờ phía Nam xuống tận Quảng Nam.
Các nước lân bang như Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp, Lan xang, Chiang Mai, Melaka (thuộc Malaysia ngày nay), Java (thuộc Indonesia ngày nay) đều trở thành chư hầu và đều có nghĩa vụ nộp cống cho Đại Việt. Tuy Đại Việt vẫn giữ thói quen xưa là xưng thần với nhà Minh nhưng với thanh thế lững lẫy của mình lúc đó khiến nhà Minh vẫn không dám khinh động mà dùng lễ để đối đãi với Đại Việt.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Hiến Tông
(1497 – 1504)
Tên huý: Lê Tranh
Năm 1947, vua Thánh Tông băng hà, con trưởng là Lê Tranh lên kế vị, tức Lê Hiến Tông.
Ông là vị vua thông minh, nhân từ và ôn hòa nên giữ được sự thịnh trị thái bình, thiên hạ bình an.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Túc Tông
(1504)
Tên huý: Lê Thuần
Năm 1504, Lê Hiến Tông bị bệnh nặng băng hà, con là Lê Thuần lên ngôi, tức Lê Túc Tông.
Ông là vị vua hiền, hiếu học, thân người hiền nhưng đáng tiếc là chỉ ở ngôi có 6 tháng.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Uy Mục
(1505 – 1509)
Tên huý: Lê Tuấn
Cuối năm 1504, vua Lê Túc Tông băng hà. Theo ký thác của vua Túc Tông - anh của ông là Lê Tuấn lên kế vị, tức Lê Uy Mục.
Uy Mục là một hôn quân ăn chơi sa đọa, ham mê tửu sắc, tàn bạo giết hại nhiều trung thần khiến quần thần phẩn nộ.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Tương Dực
(1509 – 1516)
Tên huý: Lê Oanh
Năm 1509, Giản Tu công Lê Oanh là cháu nội vua Thánh Tông, con của Kiến Vương Lê Tân nổi dậy đem quân đánh Đông Kinh (Hà Nội), bắt giết Lê Uy Mục.
Sau đó, Lê Oanh lên ngôi vua, tức Lê Tương Dực. Vua ban đầu còn chăm lo việc nước, sau ăn chơi vô độ làm triều đình rối ren, phản loạn khắp nơi.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Chiêu Tông
(1516 – 1522)
Tên huý: Lê Y
Năm 1516, Trịnh Duy Sản đã giết chết vua Tương Dực, lập con người anh của Tương Dực là Lê Y lên làm vua, tức Lê Chiêu Tông.
Lúc này quyền thần họ Trần, Trịnh, Mạc lộng hành, nổi loạn khắp nơi.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Cung Hoàng
(1552 – 1527)
Tên huý: Lê Xuân
Mạc Đăng Dung, lập Lê Xuân lên ngôi, tức Lê Cung Hoàng.
Năm 1526, Mạc Đăng Dung giết được Chiêu Tông, nửa năm sau họ Mạc ép Cung Hoàng nhường ngôi.
Từ đây nhà Lê chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, không còn thực quyền. Đất nước bị chia cắt thành Nam-Bắc triều.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Nguyễn Trãi
(1380 - 1442)
Chân dung Nguyễn Trãi do họa sĩ P. D TVE vẽ, 1917
Hiệu là Ức Trai; là một anh hùng dân tộc, nhà chính trị - quân sự. Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa Việt Nam và thế giới. Ông sinh tại làng Nhị Khê (nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây); quê gốc Chí Linh (Hải Dương).
Nguyễn Trãi đỗ thái học sinh (tiến sĩ, 1400), làm quan nhà Hồ (1400-1407). Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và chiến tranh giải phóng chống Minh (1418-1427), dâng "Bình Ngô sách" (kế sách đánh giặc), trở thành quân sư nổi tiếng, giúp Lê Lợi xây dựng đường lối chính trị, quân sự đúng đắn cho khởi nghĩa và chiến tranh, coi dân như nước "nước có thể chở thuyền mà cũng có thể lật thuyền...", kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc ("lấy đại nghĩa thắng hung tàn", "lấy chí nhân thay cường bạo"), chủ trương thu phục lòng người ("tâm công"), góp phần quan trọng dụ hàng nhiều tướng giặc (Phương Chính, Sơn Thọ, Thái Phúc, Trần Trí...).
Sau thắng lợi, Nguyễn Trãi được phong tước Phục Hầu và được ban quốc tính (mang họ vua), chức nhập nội hành khiển kiêm thượng thư Bộ lại. Do gian thần gièm pha nên bị bắt giam (1430), sau được tha (1432). Cuối những năm 30 về ẩn dật ở Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương). Năm 1439, ông được phục hồi chức tước.
Ngày 19/9/1442, Nguyễn Trãi bị kết tội và bị chu di tam tộc do bị nghi oan có liên quan đến cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tông. Năm 1464, Nguyễn Trãi được Lê Thánh Tông minh oan và truy phong tước Tế Văn Hầu.
Nguyễn Trãi là tác giả nhiều tác phẩm: "Bình Ngô sách", "Quân trung từ mệnh tập", "Bình Ngô đại cáo", "Lam sơn thực lục", "Dư địa chí", "Quốc âm thi tập", "Luật thư"...
Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Quay lại
Tên huý: Lê Lợi
Lê Lợi sinh ngày 10/9/1385 (6/8 năm Ất Sửu); là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương. Người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá.
Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là người phi thường.
Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn. Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Quay lại
Tên huý: Lê Nguyên Long
Năm 1433, vua Lê Thái Tổ băng hà, con thứ là thái tử Lê Nguyên Long lên kế ngôi khi được 11 tuổi.
Từ nhỏ ông đã tỏ ra là vị vua anh minh sáng suốt, có tài nhìn xa trông rộng, tuy tuổi nhỏ nhưng tự mình cầm quyền chấp chính.
Quay lại
Tên huý: Lê Bang Cơ
Năm 1442, vua Lê Thái Tông băng hà một cách bí ẩn tại Lệ Chi Viên, thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi vua, tức Lê Nhân Tông, thái hậu là Nguyễn Thị Anh nhiếp chính.
Ông là vị vua nhân từ, bác ái, trọng đãi công thần, hiếu đễ.
Vua Lê Thái Tông
(1433 – 1442)
Tên huý: Lê Nguyên Long
Năm 1433, vua Lê Thái Tổ băng hà, con thứ là thái tử Lê Nguyên Long lên kế ngôi khi được 11 tuổi.
Từ nhỏ ông đã tỏ ra là vị vua anh minh sáng suốt, có tài nhìn xa trông rộng, tuy tuổi nhỏ nhưng tự mình cầm quyền chấp chính.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Thái Tổ
(1428 - 1433)
Tên huý: Lê Lợi
Lê Lợi sinh ngày 10/9/1385 (6/8 năm Ất Sửu); là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương. Người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá.
Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là người phi thường.
Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn. Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Thông tin liên quan
<p>Tượng Lê Lợi tại Quảng trường Thành phố Thanh Hóa được xây dựng vào tháng 11/2004</p>
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Nhân Tông
(1442 – 1459)
Tên huý: Lê Bang Cơ
Năm 1442, vua Lê Thái Tông băng hà một cách bí ẩn tại Lệ Chi Viên, thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi vua, tức Lê Nhân Tông, thái hậu là Nguyễn Thị Anh nhiếp chính.
Ông là vị vua nhân từ, bác ái, trọng đãi công thần, hiếu đễ.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Tên huý: Lê Tư Thành
Lê Thánh Tông là một bậc minh quân và là vị vua đã đưa nước Đại Việt phát triển đến thời cực thịnh.
Bên trong ông chú trọng giáo dục, trọng dụng hiền tài. Bên ngoài ông chú trọng mở mang bờ cõi. Trong thời kỳ này, với việc Tây tiến và Nam tiến của mình, Đại Việt đã mở mang bờ phía Nam xuống tận Quảng Nam.
Các nước lân bang như Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp, Lan xang, Chiang Mai, Melaka (thuộc Malaysia ngày nay), Java (thuộc Indonesia ngày nay) đều trở thành chư hầu và đều có nghĩa vụ nộp cống cho Đại Việt. Tuy Đại Việt vẫn giữ thói quen xưa là xưng thần với nhà Minh nhưng với thanh thế lững lẫy của mình lúc đó khiến nhà Minh vẫn không dám khinh động mà dùng lễ để đối đãi với Đại Việt.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Hiến Tông
(1497 – 1504)
Tên huý: Lê Tranh
Năm 1947, vua Thánh Tông băng hà, con trưởng là Lê Tranh lên kế vị, tức Lê Hiến Tông.
Ông là vị vua thông minh, nhân từ và ôn hòa nên giữ được sự thịnh trị thái bình, thiên hạ bình an.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Túc Tông
(1504)
Tên huý: Lê Thuần
Năm 1504, Lê Hiến Tông bị bệnh nặng băng hà, con là Lê Thuần lên ngôi, tức Lê Túc Tông.
Ông là vị vua hiền, hiếu học, thân người hiền nhưng đáng tiếc là chỉ ở ngôi có 6 tháng.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Uy Mục
(1505 – 1509)
Tên huý: Lê Tuấn
Cuối năm 1504, vua Lê Túc Tông băng hà. Theo ký thác của vua Túc Tông - anh của ông là Lê Tuấn lên kế vị, tức Lê Uy Mục.
Uy Mục là một hôn quân ăn chơi sa đọa, ham mê tửu sắc, tàn bạo giết hại nhiều trung thần khiến quần thần phẩn nộ.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Tương Dực
(1509 – 1516)
Tên huý: Lê Oanh
Năm 1509, Giản Tu công Lê Oanh là cháu nội vua Thánh Tông, con của Kiến Vương Lê Tân nổi dậy đem quân đánh Đông Kinh (Hà Nội), bắt giết Lê Uy Mục.
Sau đó, Lê Oanh lên ngôi vua, tức Lê Tương Dực. Vua ban đầu còn chăm lo việc nước, sau ăn chơi vô độ làm triều đình rối ren, phản loạn khắp nơi.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Chiêu Tông
(1516 – 1522)
Tên huý: Lê Y
Năm 1516, Trịnh Duy Sản đã giết chết vua Tương Dực, lập con người anh của Tương Dực là Lê Y lên làm vua, tức Lê Chiêu Tông.
Lúc này quyền thần họ Trần, Trịnh, Mạc lộng hành, nổi loạn khắp nơi.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Cung Hoàng
(1552 – 1527)
Tên huý: Lê Xuân
Mạc Đăng Dung, lập Lê Xuân lên ngôi, tức Lê Cung Hoàng.
Năm 1526, Mạc Đăng Dung giết được Chiêu Tông, nửa năm sau họ Mạc ép Cung Hoàng nhường ngôi.
Từ đây nhà Lê chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, không còn thực quyền. Đất nước bị chia cắt thành Nam-Bắc triều.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Nguyễn Trãi
(1380 - 1442)
Chân dung Nguyễn Trãi do họa sĩ P. D TVE vẽ, 1917
Hiệu là Ức Trai; là một anh hùng dân tộc, nhà chính trị - quân sự. Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa Việt Nam và thế giới. Ông sinh tại làng Nhị Khê (nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây); quê gốc Chí Linh (Hải Dương).
Nguyễn Trãi đỗ thái học sinh (tiến sĩ, 1400), làm quan nhà Hồ (1400-1407). Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và chiến tranh giải phóng chống Minh (1418-1427), dâng "Bình Ngô sách" (kế sách đánh giặc), trở thành quân sư nổi tiếng, giúp Lê Lợi xây dựng đường lối chính trị, quân sự đúng đắn cho khởi nghĩa và chiến tranh, coi dân như nước "nước có thể chở thuyền mà cũng có thể lật thuyền...", kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc ("lấy đại nghĩa thắng hung tàn", "lấy chí nhân thay cường bạo"), chủ trương thu phục lòng người ("tâm công"), góp phần quan trọng dụ hàng nhiều tướng giặc (Phương Chính, Sơn Thọ, Thái Phúc, Trần Trí...).
Sau thắng lợi, Nguyễn Trãi được phong tước Phục Hầu và được ban quốc tính (mang họ vua), chức nhập nội hành khiển kiêm thượng thư Bộ lại. Do gian thần gièm pha nên bị bắt giam (1430), sau được tha (1432). Cuối những năm 30 về ẩn dật ở Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương). Năm 1439, ông được phục hồi chức tước.
Ngày 19/9/1442, Nguyễn Trãi bị kết tội và bị chu di tam tộc do bị nghi oan có liên quan đến cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tông. Năm 1464, Nguyễn Trãi được Lê Thánh Tông minh oan và truy phong tước Tế Văn Hầu.
Nguyễn Trãi là tác giả nhiều tác phẩm: "Bình Ngô sách", "Quân trung từ mệnh tập", "Bình Ngô đại cáo", "Lam sơn thực lục", "Dư địa chí", "Quốc âm thi tập", "Luật thư"...
Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Quay lại
Tên huý: Lê Lợi
Lê Lợi sinh ngày 10/9/1385 (6/8 năm Ất Sửu); là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương. Người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá.
Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là người phi thường.
Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn. Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Quay lại
Tên huý: Lê Nguyên Long
Năm 1433, vua Lê Thái Tổ băng hà, con thứ là thái tử Lê Nguyên Long lên kế ngôi khi được 11 tuổi.
Từ nhỏ ông đã tỏ ra là vị vua anh minh sáng suốt, có tài nhìn xa trông rộng, tuy tuổi nhỏ nhưng tự mình cầm quyền chấp chính.
Quay lại
Tên huý: Lê Bang Cơ
Năm 1442, vua Lê Thái Tông băng hà một cách bí ẩn tại Lệ Chi Viên, thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi vua, tức Lê Nhân Tông, thái hậu là Nguyễn Thị Anh nhiếp chính.
Ông là vị vua nhân từ, bác ái, trọng đãi công thần, hiếu đễ.
Vua Lê Nhân Tông
(1442 – 1459)
Tên huý: Lê Bang Cơ
Năm 1442, vua Lê Thái Tông băng hà một cách bí ẩn tại Lệ Chi Viên, thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi vua, tức Lê Nhân Tông, thái hậu là Nguyễn Thị Anh nhiếp chính.
Ông là vị vua nhân từ, bác ái, trọng đãi công thần, hiếu đễ.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Thái Tổ
(1428 - 1433)
Tên huý: Lê Lợi
Lê Lợi sinh ngày 10/9/1385 (6/8 năm Ất Sửu); là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương. Người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá.
Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là người phi thường.
Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn. Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Thông tin liên quan
<p>Tượng Lê Lợi tại Quảng trường Thành phố Thanh Hóa được xây dựng vào tháng 11/2004</p>
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Thái Tông
(1433 – 1442)
Tên huý: Lê Nguyên Long
Năm 1433, vua Lê Thái Tổ băng hà, con thứ là thái tử Lê Nguyên Long lên kế ngôi khi được 11 tuổi.
Từ nhỏ ông đã tỏ ra là vị vua anh minh sáng suốt, có tài nhìn xa trông rộng, tuy tuổi nhỏ nhưng tự mình cầm quyền chấp chính.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Tên huý: Lê Tư Thành
Lê Thánh Tông là một bậc minh quân và là vị vua đã đưa nước Đại Việt phát triển đến thời cực thịnh.
Bên trong ông chú trọng giáo dục, trọng dụng hiền tài. Bên ngoài ông chú trọng mở mang bờ cõi. Trong thời kỳ này, với việc Tây tiến và Nam tiến của mình, Đại Việt đã mở mang bờ phía Nam xuống tận Quảng Nam.
Các nước lân bang như Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp, Lan xang, Chiang Mai, Melaka (thuộc Malaysia ngày nay), Java (thuộc Indonesia ngày nay) đều trở thành chư hầu và đều có nghĩa vụ nộp cống cho Đại Việt. Tuy Đại Việt vẫn giữ thói quen xưa là xưng thần với nhà Minh nhưng với thanh thế lững lẫy của mình lúc đó khiến nhà Minh vẫn không dám khinh động mà dùng lễ để đối đãi với Đại Việt.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Hiến Tông
(1497 – 1504)
Tên huý: Lê Tranh
Năm 1947, vua Thánh Tông băng hà, con trưởng là Lê Tranh lên kế vị, tức Lê Hiến Tông.
Ông là vị vua thông minh, nhân từ và ôn hòa nên giữ được sự thịnh trị thái bình, thiên hạ bình an.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Túc Tông
(1504)
Tên huý: Lê Thuần
Năm 1504, Lê Hiến Tông bị bệnh nặng băng hà, con là Lê Thuần lên ngôi, tức Lê Túc Tông.
Ông là vị vua hiền, hiếu học, thân người hiền nhưng đáng tiếc là chỉ ở ngôi có 6 tháng.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Uy Mục
(1505 – 1509)
Tên huý: Lê Tuấn
Cuối năm 1504, vua Lê Túc Tông băng hà. Theo ký thác của vua Túc Tông - anh của ông là Lê Tuấn lên kế vị, tức Lê Uy Mục.
Uy Mục là một hôn quân ăn chơi sa đọa, ham mê tửu sắc, tàn bạo giết hại nhiều trung thần khiến quần thần phẩn nộ.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Tương Dực
(1509 – 1516)
Tên huý: Lê Oanh
Năm 1509, Giản Tu công Lê Oanh là cháu nội vua Thánh Tông, con của Kiến Vương Lê Tân nổi dậy đem quân đánh Đông Kinh (Hà Nội), bắt giết Lê Uy Mục.
Sau đó, Lê Oanh lên ngôi vua, tức Lê Tương Dực. Vua ban đầu còn chăm lo việc nước, sau ăn chơi vô độ làm triều đình rối ren, phản loạn khắp nơi.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Chiêu Tông
(1516 – 1522)
Tên huý: Lê Y
Năm 1516, Trịnh Duy Sản đã giết chết vua Tương Dực, lập con người anh của Tương Dực là Lê Y lên làm vua, tức Lê Chiêu Tông.
Lúc này quyền thần họ Trần, Trịnh, Mạc lộng hành, nổi loạn khắp nơi.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Vua Lê Cung Hoàng
(1552 – 1527)
Tên huý: Lê Xuân
Mạc Đăng Dung, lập Lê Xuân lên ngôi, tức Lê Cung Hoàng.
Năm 1526, Mạc Đăng Dung giết được Chiêu Tông, nửa năm sau họ Mạc ép Cung Hoàng nhường ngôi.
Từ đây nhà Lê chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, không còn thực quyền. Đất nước bị chia cắt thành Nam-Bắc triều.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Nguyễn Trãi
(1380 - 1442)
Chân dung Nguyễn Trãi do họa sĩ P. D TVE vẽ, 1917
Hiệu là Ức Trai; là một anh hùng dân tộc, nhà chính trị - quân sự. Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa Việt Nam và thế giới. Ông sinh tại làng Nhị Khê (nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây); quê gốc Chí Linh (Hải Dương).
Nguyễn Trãi đỗ thái học sinh (tiến sĩ, 1400), làm quan nhà Hồ (1400-1407). Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và chiến tranh giải phóng chống Minh (1418-1427), dâng "Bình Ngô sách" (kế sách đánh giặc), trở thành quân sư nổi tiếng, giúp Lê Lợi xây dựng đường lối chính trị, quân sự đúng đắn cho khởi nghĩa và chiến tranh, coi dân như nước "nước có thể chở thuyền mà cũng có thể lật thuyền...", kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc ("lấy đại nghĩa thắng hung tàn", "lấy chí nhân thay cường bạo"), chủ trương thu phục lòng người ("tâm công"), góp phần quan trọng dụ hàng nhiều tướng giặc (Phương Chính, Sơn Thọ, Thái Phúc, Trần Trí...).
Sau thắng lợi, Nguyễn Trãi được phong tước Phục Hầu và được ban quốc tính (mang họ vua), chức nhập nội hành khiển kiêm thượng thư Bộ lại. Do gian thần gièm pha nên bị bắt giam (1430), sau được tha (1432). Cuối những năm 30 về ẩn dật ở Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương). Năm 1439, ông được phục hồi chức tước.
Ngày 19/9/1442, Nguyễn Trãi bị kết tội và bị chu di tam tộc do bị nghi oan có liên quan đến cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tông. Năm 1464, Nguyễn Trãi được Lê Thánh Tông minh oan và truy phong tước Tế Văn Hầu.
Nguyễn Trãi là tác giả nhiều tác phẩm: "Bình Ngô sách", "Quân trung từ mệnh tập", "Bình Ngô đại cáo", "Lam sơn thực lục", "Dư địa chí", "Quốc âm thi tập", "Luật thư"...
Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
Vua Lê Thánh Tông
(1460 – 1497)
Tranh thờ Vua Lê Thánh Tông tại Thái miếu Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
Quay lại
Tên huý: Lê Lợi
Lê Lợi sinh ngày 10/9/1385 (6/8 năm Ất Sửu); là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương. Người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá.
Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là người phi thường.
Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn. Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Quay lại
Tên huý: Lê Nguyên Long
Năm 1433, vua Lê Thái Tổ băng hà, con thứ là thái tử Lê Nguyên Long lên kế ngôi khi được 11 tuổi.
Từ nhỏ ông đã tỏ ra là vị vua anh minh sáng suốt, có tài nhìn xa trông rộng, tuy tuổi nhỏ nhưng tự mình cầm quyền chấp chính.
Quay lại
Tên huý: Lê Bang Cơ
Năm 1442, vua Lê Thái Tông băng hà một cách bí ẩn tại Lệ Chi Viên, thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi vua, tức Lê Nhân Tông, thái hậu là Nguyễn Thị Anh nhiếp chính.
Ông là vị vua nhân từ, bác ái, trọng đãi công thần, hiếu đễ.