Sơ đồ mô tả quá trình của cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất
Cuộc kháng chiến của quân và dân Đại Cồ Việt do Lê Hoàn lãnh đạo, chống Nhà Tống (Trung Quốc) xâm lược. Sau khi lật đổ Nhà Hậu Chu, năm 960, Triệu Khuông Dận lên ngôi Hoàng đế, lập nên triều đại Nhà Tống (thời kì đầu gọi là Bắc Tống), đóng đô tại đất Biện Lương (nay thuộc huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc).
Với nhiều biện pháp cải tổ chính quyền, chấn hưng kinh tế, trong gần 20 năm cầm quyền, Nhà Tống đã lần lượt tiêu diệt các nước Kinh Nam, Hậu Thục, Nam Hán, Nam Đường, Ngô Việt, Bắc Hán, chấm dứt cục diện cát cứ “ngũ đại thập quốc”, thống nhất Trung Quốc và trở thành triều đại phong kiến cường thịnh nhất châu Á đương thời. Thực hiện ý đồ bành trướng, mở rộng lãnh thổ, các triều vua Nhà Tống ra sức thi hành chính sách “tiền nam, hậu bắc” (nghĩa là trước đánh xuống phía nam, sau mới tính việc phía bắc), trong đó có mục tiêu thôn tính Đại Cồ Việt.
Mùa thu năm Canh Thìn (980), nhận được mật thư của Tri châu Hầu Nhân Bảo ở Ung Châu về việc triều Đinh ở Đại Cồ Việt suy yếu, nội bộ triều đình lục đục, chém giết lẫn nhau để tranh giành quyền hành (đầu năm 979, Nam Việt Vương Đinh Liễn giết em là Thái tử Hạng Lang, đến cuối năm 979, hai cha con Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết; vua mới lên ngôi là Đinh Toàn mới 6 tuổi), Vua Tống Thái Tông (lên ngôi 976) giao cho Tể tướng Lư Đa Tốn mưu tính kế hoạch đánh chiếm Đại Cồ Việt.
Trước nguy cơ ngoại xâm, triều thần Nhà Đinh suy tôn Lê Hoàn, lúc đó đang giữ chức Thập đạo tướng quân lên ngôi vua (mở đầu thời Tiền Lê). Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn một mặt gấp rút củng cố triều đình Hoa Lư, thành lập bộ chỉ huy kháng chiến tối cao do Lê Hoàn trực tiếp làm tổng chỉ huy, đồng thời tổ chức tuyển chọn tướng tài và huấn luyện quân sĩ, triển khai lực lượng bố phòng đất nước ở phía bắc và đông bắc (đóng cọc ngầm ở cửa sông Bạch Đằng), đặc biệt là hệ thống phòng thủ trong và ngoài thành Hoa Lư, hệ thống đồn thuỷ cửa biển, cùng các tuyến đường chiến lược dẫn tới kinh thành. Đồng thời, Lê Hoàn cử một phái đoàn của triều đình vào phòng thủ phía Nam, đề phòng quân Chiêm Thành liên kết với quân Tống cùng phối hợp tiến công từ hai hướng nam, bắc.
Ngoài ra, về quan hệ ngoại giao, Lê Hoàn cử Triệu Tử Ái đi sứ sang triều đình Tống cầu phong cho Đinh Toàn, nhằm mục đích dò xét tình hình và tìm cách hoãn binh. Triều đình Tống không chấp nhận phong vương cho Đinh Toàn và đưa thư ép buộc Lê Hoàn phải đầu hàng; đồng thời vua Tống ban sắc lệnh thành lập Giao Châu hành doanh (bộ chỉ huy quân viễn chinh xâm lược Giao Châu), gồm các tướng Hầu Nhân Bảo giữ chức tổng chỉ huy, Tôn Toàn Hưng chỉ huy bộ binh, Hứa Xương Duệ làm thông tín sứ, Hứa Trọng Tuyên phụ trách lương thảo (về sau bổ sung thêm Lưu Trừng và Trần Khâm Tộ).
Về tổ chức lực lượng, Nhà Tống chủ trương tập trung xuất quân thành hai đợt theo kế “tật lôi bất cập yểm nhĩ” (sét đánh không kịp bịt tai) của Tể tướng Lư Đa Tốn: đợt đầu lấy quân ở Ung - Quảng (khoảng 20 nghìn quân thuỷ bộ) do Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng chỉ huy; đợt sau điều thêm 10-20 nghìn quân ở Kinh Hồ, do Lưu Trừng chỉ huy thuỷ binh, Trần Khâm Tộ chỉ huy bộ binh sang hợp chiến.
Thực hiện kế hoạch xâm lược, đầu năm 981, quân Tống tổ chức thành 2 cánh tiến vào Đại Cồ Việt: cánh thứ nhất khoảng 10 nghìn thuỷ binh do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, từ Khâm Châu (Quảng Đông) theo ven biển vịnh Hạ Long vào sông Bạch Đằng; cánh thứ hai khoảng 10 nghìn bộ binh do Tôn Toàn Hưng chỉ huy, từ Ung Châu (Quảng Tây) vượt qua châu Tô Mậu (Tiên Yên) vào Đông Triều.
Trong những ngày đầu tiến công, mặc dù bị quân dân Đại Cồ Việt tổ chức chặn đánh quyết liệt cả trên đường bộ và đường thuỷ, nhưng do có ưu thế hơn về lực lượng, các cánh quân Tống đã giành một số thắng lợi ở vùng cửa sông Bạch Đằng (24/1) và Hoa Bộ (30/1), thuộc địa bàn huyện Thuỷ Đường, nay thuộc vùng đông bắc huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng), thực hiện được ý đồ tập trung lực lượng chuẩn bị đánh chiếm Đại La (Hà Nội), tạo bàn đạp đánh xuống kinh thành Hoa Lư.
Về phía Đại Cồ Việt, sau những trận đánh đầu tiên với quân Tống ở Bạch Đằng - Hoa Bộ, nắm được ý đồ của quân Tống chuẩn bị tiến vào sông Kinh Thầy để đánh chiếm Đại La, Lê Hoàn quyết định rút phần lớn lực lượng về giữ vùng sông Lục Đầu. Dựa vào trận địa được chuẩn bị trước dọc theo tuyến sông từ thành Đại La đến trại Phù Lan (sông Đuống), ngày 7/2, quân đội triều đình dưới sự chỉ huy trực tiếp của Lê Hoàn và tướng Phạm Cự Lạng cùng với nhiều đội quân địa phương tự nguyện tham gia chiến đấu đã chặn đánh, đẩy lui nhiều đợt tiến công của quân Tống tại khu vực Đồ Lỗ (7/2). Sau trận đánh này, cánh quân bộ do Tôn Toàn Hưng chỉ huy không dám tiếp tục tiến công, thực hiện án binh bất động tại Hoa Bộ để chờ viện binh, khiến cho ý định phối hợp các cánh quân thuỷ bộ để đánh chiếm Đại La và tiến xuống Hoa Lư của quân Tống không thực hiện được. Do nóng lòng lập công, khoảng giữa tháng 2 năm Tân Tỵ (3/981), Hầu Nhân Bảo quyết định đưa toàn bộ lực lượng thuỷ quân từ Bạch Đằng đến cửa biển Ngãi Am, theo sông Tranh và sông Lục (nay là sông Hoá, sông Luộc) mở cuộc tiến công lớn vào Lục Giang (sông Luộc) nhằm phá thành Bình Lỗ rồi đánh chiếm Hoa Lư, nhưng ý đồ tiến công thất bại.
Vào thời điểm này, Nhà Tống đã đưa sang Đại Cồ Việt lực lượng lớn viện binh, gồm cánh thuỷ quân của Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng hỗ trợ cho Hầu Nhân Bảo; cánh quân bộ của Trần Khâm Tộ tăng cường cho Tôn Toàn Hưng kéo xuống đóng ở Tây Kết, tạo thế uy hiếp kinh đô Hoa Lư.
Trước tình hình nguy cấp, Lê Hoàn một mặt dùng kế trá hàng nhằm làm cho quân Tống chủ quan; mặt khác điều thêm quân về Tây Kết ngăn chặn cánh quân của Trần Khâm Tộ, bảo vệ kinh đô Hoa Lư, đồng thời tập trung lực lượng triển khai trận địa đối phó với cánh quân Hầu Nhân Bảo và Lưu Trừng ở sông Bạch Đằng.
Bằng cách đánh quyết liệt kết hợp với trận địa cọc ngầm, ngày 28/4/981, Lê Hoàn tổ chức trận phản công chiến lược đánh tan thuỷ binh Tống ở vùng cửa sông Bạch Đằng, giết Hầu Nhân Bảo cùng nhiều quan tướng Nhà Tống (riêng Lưu Trừng chạy thoát). Sau khi đánh tan thuỷ binh Tống ở sông Bạch Đằng, Lê Hoàn gấp rút kéo quân về Tây Kết, phối hợp với lực lượng tại đây mở cuộc tiến công tiêu diệt phần lớn cánh quân bộ do Trần Khâm Tộ chỉ huy, sau đó tiến hành truy kích quân Tống rút chạy đến châu Vũ Nhai, diệt và bắt thêm nhiều quân tướng Tống (Trần Khâm Tộ chạy thoát).
Trước đó, khi biết tin Hầu Nhân Bảo tử trận ở sông Bạch Đằng, cánh quân bộ do Tôn Toàn Hưng chỉ huy ở Hoa Bộ đã hoảng sợ rút chạy. Tuy nhiên, các bại tướng Tống như Tôn Toàn Hưng, Lưu Trừng, Giã Thực, Vương Soạn..., mặc dù chạy thoát về nước, nhưng cũng bị triều đình Nhà Tống xử chém hoặc bắt giam.
Cuộc kháng chiến của quân dân Đại Cồ Việt giành thắng lợi, trước hết thể hiện sự thống nhất ý chí trong nội bộ triều đình cũng như toàn dân tộc trước nguy cơ ngoại xâm.
Bộ Chỉ huy tối cao dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Lê Hoàn đã nhanh chóng xác định đúng phương lược kháng chiến, chủ động nắm địch và chuẩn bị kháng chiến chu đáo; biết sử dụng tướng tài, đồng thời biết dựa vào địa hình và địa thế có lợi để tổ chức thế trận phòng ngự có hiệu quả, vận dụng linh hoạt các hình thức tác chiến phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu trên từng khu vực, công thủ đúng lúc để tập trung lực lượng thực hiện trận phản công chiến lược tiêu diệt quân chủ lực đối phương ngay tại tuyến đầu Tổ quốc, buộc nhà Tống phải ra lệnh bãi binh, kết thúc chiến tranh.
Kháng chiến thắng lợi, Lê Hoàn thi hành chính sách ngoại giao mềm dẻo với nhà Tống để củng cố đất nước.