Sơ đồ cuộc khởi nghĩa chống quân Minh đầu thế kỷ XV
Kháng chiến chống Minh (1406-1407) là kháng chiến của quân và dân Việt Nam thời nhà Hồ do Hồ Quý Ly lãnh đạo, chống quân Minh xâm lược. Tháng 5/1406, lấy cớ "phù Trần diệt Hồ", nhà Minh sai Hàn Quan đem 100.000 quân hộ tống Trần Thiêm Bình về làm vua Đại Việt, bị quân nhà Hồ phục kích, đánh bại ở ải Lãnh Kinh (nay thuộc Bắc Ninh), Hàn Quan phải giảng hoà, nộp Trần Thiêm Bình cho nhà Hồ để được rút quân.
Sau thắng lợi, nhà Hồ tăng cường quân đội, xây dựng các tuyến phòng thủ quy mô lớn ở phía bắc dài khoảng 400km trong đó thành Đa Bang (nay thuộc Ba Vì, thành phố Hà Nội) là cứ điểm then chốt; các cửa sông, cửa biển hiểm yếu đều được cắm cọc gỗ và chăng lưới sắt.
Tháng 11/1406, nhà Minh đem hơn 200.000 bộ binh và kị binh, hàng chục vạn dân phu, chia hai hướng tiến đánh: hướng đông bắc, do Trương Phụ chỉ huy, từ Quảng Tây vào Lạng Sơn; hướng tây bắc do Mộc Thạnh chỉ huy, từ Vân Nam tiến dọc theo Sông Hồng. Nhà Minh còn lôi kéo quân Chiêm Thành đánh phía nam.
Tháng 12/1406, quân Minh hội quân ở Bạch Hạc (Phú Thọ), phá vỡ các tuyến phòng thủ, chiếm thành Đa Bang (20/1/1407) và Đông Đô (nay là Hà Nội, 22/1). Quân nhà Hồ lui về phòng thủ mạn hạ lưu Sông Hồng, tiến hành một số trận phản công nhưng đều thất bại. Tháng 5/1407, Hồ Quý Ly cùng triều đình rút vào Thanh Hóa giữ vùng đất phía nam, bị quân Minh truy đuổi, đánh bại ở Lỗi Giang (Thanh Hóa), cửa biển Kì La (Hà Tĩnh).
Kháng chiến chống Minh chấm dứt sau khi cha con Hồ Quý Ly bị bắt vào tháng 6/1407.