Đinh ba, câu liêm là vũ khí quân đội nhà Lê sử dụng vào Thế kỷ XV
Quân đội Hậu Lê là lực lượng vũ trang của Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn và sau đó của nhà nước phong kiến Việt Nam triều đại Hậu Lê.
Trải qua ba thời kì xây dựng và tồn tại: thời kì khởi nghĩa, tiến hành chiến tranh giải phóng (1418-1427); thời kì các vua Lê trị vì đất nước (thời Lê Sơ, 1428-1527) và thời kì Lê - Trịnh (Lê Trung Hưng, 1533-1788).
Trong thời kì thứ nhất (1418-1427), lực lượng khi mới khởi nghĩa khoảng 2.000 người, trang bị thô sơ. Được nhân dân ủng hộ và phát triển nhanh chóng trong chiến tranh. Tới 1426 quân số đã lên tới 250.000 người, tổ chức thành các vệ (trong đó có 14 vệ quân thiết đột), các đội tượng binh, thủy binh và kị binh. Đã chiến đấu và giải phóng đất nước.
Thời kì thứ hai (1428-1527), lực lượng vũ trang được tổ chức lại thành quân đội của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, có cơ cấu phù hợp với bộ máy hành chính: cả nước chia thành năm đạo; ở mỗi đạo, quyền điều hành về các mặt quân, dân, chính đều tập trung ở quan hành khiển.
Dưới đạo (theo từng cấp) là trấn (lộ), phủ, huyện (châu), xã. quân đội Hậu Lê gồm quân ở kinh đô (quân cấm vệ) và quân ở năm đạo. Quân ở kinh đô tổ chức thành quân; có: 6 quân ngự tiền (bảo vệ vua, triều đình), 5 quân thiết đột (bảo vệ kinh thành và cơ động chiến đấu), một số vệ, đội thủy binh, tượng binh, kị binh và pháo binh.
Quân ở năm đạo tổ chức thành vệ; mỗi đạo có 5-6 vệ (1 vệ gồm 5 sở, 20 đội; mỗi đội 20 người), dưới quyền chỉ huy trực tiếp của tổng quản. Quân số (đời Lê Thái Tổ, 1428-1433) khoảng 100 nghìn người; quân ở năm đạo chia thành năm phiên, thay nhau một phiên thường trực, bốn phiên về sản xuất.
Dưới đời Lê Thánh Tông (1460-1496), có nhiều thay đổi về tổ chức hành chính nhà nước và quân sự: đặt ngũ phủ quân (1466) để thống xuất việc quân ở năm đạo; từ năm 1470 đất nước chia thành mười ba đạo; quyền hành ở đạo trước tập trung vào hành khiển, nay phân chia cho ba ti: ti thừa (phụ trách hành chính, tài chính và tư pháp), ti hiến (giám sát công việc trong đạo) và ti đô (trông coi việc quân). Đơn vị tổ chức thống nhất của quân đội Hậu Lê giai đoạn này là vệ. Trong quân ở kinh đô, vệ gồm một số ti; có: vệ Kim Ngô, vệ Cẩm Y, 4 vệ Thần Vũ, 4 vệ Hiệu Lực, 6 vệ Điện Tiền, 4 vệ Mã Nhàn (kị binh), 4 vệ Tuần Tượng (tượng binh), 4 vệ thủy binh, 6 pháo đội...
Ở 13 đạo thừa tuyên (mỗi đạo thường có 1 vệ), vệ gồm một số sở thiên hộ và sở bách hộ, quân số khoảng 5.600 người. Ở một số đạo có tổ chức lực lượng giang hải tuần kiểm. Quân ở đạo thuộc ti đô, dưới quyền chỉ huy trực tiếp của tổng binh sứ. Thời kì này, tuy đã hình thành khá rõ nét các loại quân (bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh...) nhưng quân đội Hậu Lê vẫn quy thành quân bộ và quân thủy. Quân thủy có sự phát triển về tổ chức, số lượng chiến thuyền, nhưng vẫn chưa có hệ thống chỉ huy riêng và chủ yếu dùng để tuần tra sông, ven biển và chở quân, lương thực.
Trong cuộc hành binh xuống phía nam năm 1470, đã huy động khoảng 5.000 thuyền, chở 250.000 quân, chia thành hai đạo và đều hành quân bằng đường biển.
Quân thủy thời bình tổ chức thành các vệ; mỗi vệ có 10 hỏa chiến thuyền và 2 tiêu thuyền nhỏ (thuyền tuần tra, cảnh giới) và được trang bị 1 hỏa đồng đại tướng quân (cực lớn), 10 hỏa đồng lớn, 12 hỏa đồng hạng trung và 80 hỏa đồng hạng nhỏ; quân trên thuyền được phân chia nhiệm vụ đến từng người. Pháo binh, tượng binh, kị binh chỉ có trong quân ở kinh đô. Điều lệnh huấn luyện và chiến đấu cho bộ binh (bộ trận, 42 điều), thủy binh (thủy trận, 31 điều), tượng binh (tượng trận, 22 điều), kị binh (mã trận, 27 điều) được ban hành.
Quân số thời bình khoảng 160.000 người, chia thành hai phiên thay nhau về sản xuất. Chế độ tuyển quân dựa trên việc kiểm kê dân số và lập sổ hộ tịch (3 năm một lần, gọi là tiểu điển; 6 năm một lần, gọi là đại điển).
Dân đinh từ 18 tuổi trở lên được chia làm sáu hạng: tráng hạng (người khoẻ mạnh, để bổ sung vào quân thường trực ở kinh đô), quân hạng (để làm quân dự bị), dân hạng, lão hạng (trên 50 tuổi), cố hạng (có bệnh tật), cùng hạng (nghèo khổ nhất).
Thời kì thứ ba (1533-1788), việc xây dựng lực lượng vũ trang phụ thuộc vào tình hình chính trị - xã hội.
Quân đội Hậu Lê thời kì này, về thực chất, là quân đội của các chúa Trịnh. Lực lượng thường trực có quân số khoảng 120.000 người, chia thành: binh thị hậu (lực lượng tin cậy của chúa, đóng giữ kinh đô) và ngoại binh (lực lượng cơ động, đóng ngoài kinh đô và các nơi hiểm yếu).
Binh thị hậu gồm bộ binh thị hậu, thủy binh thị hậu. Ở kinh đô còn có: quân nội điện (chuyên bảo vệ, phục dịch vua Lê) và một số đội binh ngoại phủ.
Ngoại binh gồm thủy binh ngoại binh và bộ binh ngoại binh. Đơn vị tổ chức của quân bộ là dinh (doanh), cơ, đội (dinh, cơ, đội không có quan hệ thống thuộc về tổ chức); số lượng quân được biên chế tùy theo loại quân, vd: dinh có 160-800 người; cơ có 200-500 người; đội có 15-275 người. Đơn vị tổ chức cơ sở của quân thủy là thuyền (tùy loại thuyền, có biên chế 20-86 người); một số thuyền hợp lại thành cơ, đội thuyền. Có khoảng 500-600 chiến thuyền, mỗi chiến thuyền lớn gắn 3-5 pháo.
Ngoài lực lượng chính quy (chủ yếu gồm ưu binh, nhất binh) đóng ở kinh đô và các nơi hiểm yếu (Thanh Hóa, Nghệ An, Bố Chính, Thái Nguyên), còn có: hương binh (ở đồng bằng) và thổ trước binh (ở vùng rừng núi). Hương binh được tổ chức thành tổng đoàn (gồm 4-6 xã, mỗi xã 10 người), do một huyện lại chỉ huy để canh phòng tại địa phương.
Từ năm 1742, đặt thêm vệ binh ở các phủ trong bốn trấn (Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương); mỗi phủ một vệ gồm một số cơ (400 người), đội (300 người), do tuần thủ chỉ huy, dùng để bảo vệ địa phương và đi đánh dẹp cùng với quân chính quy. Từ năm 1753, vệ binh được cho về làm ruộng và chỉ gọi ra khi cần thiết. Để bổ sung quân số, ngoài chế độ binh dịch theo nghĩa vụ, từ năm 1727, quân đội Hậu Lê áp dụng chế độ tuyển mộ (có trả lương; phục vụ tại ngũ lâu dài) vào lực lượng chính quy.
Trong thời kì này, do có quan hệ với một số nước phương Tây (Hà Lan, Bồ Đào Nha...), đã sản xuất và đưa vào trang bị mới súng quá sơn, đạn hồ điệp tử, quả nổ... Quân đội Hậu Lê cuối thế kỷ 18 chiến đấu kém, tan rã trước sức mạnh tiến công của quân đội Tây Sơn.