Trận đánh quân Tống trên phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077
Kháng chiến của quân và dân Đại Việt do Lý Thường Kiệt lãnh đạo, chống nhà Tống (Trung Quốc) xâm lược. Nhà Tống lập các căn cứ quân sự ở Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu và các trại sát biên giới đông bắc Đại Việt, làm nơi xuất phát cho các đạo quân xâm lược, đồng thời lôi kéo Chiêm Thành, Chân Lạp cùng xâm lấn ở phía nam.
Lý Thường Kiệt chủ trương tiến công trước để tự vệ, 27/10/1075 huy động hơn 100.000 quân, chia thành hai cánh tiến công sang đất Tống: cánh quân bộ, phối hợp với quân các tù trưởng địa phương, đánh vào các trại biên giới; cánh quân thủy, do Lý Thường Kiệt chỉ huy, vượt biển, đánh chiếm các thành Khâm Châu, Liêm Châu. Tháng 3/1076, phối hợp tiến công Ung Châu phá các căn cứ quân sự, làm thất bại một bước âm mưu xâm lược của nhà Tống. Tháng 4/1076 Lý Thường Kiệt rút quân về nước, gấp rút chuẩn bị kháng chiến, xây dựng chiến tuyến nam Sông Cầu và bố phòng vùng biển đông bắc cùng biên giới phía nam. Cuối 1076 đầu 1077, quân Tống gồm 100.000 bộ binh và kỵ binh, 200.000 dân phu và một đạo thủy binh do Quách Quỳ làm tổng chỉ huy theo hai hướng thủy bộ tiến vào Đại Việt. Hướng đường thủy, quân Tống bị chặn ở cửa biển đông bắc. Hướng bộ, bị chặn ở chiến tuyến Sông Cầu. Sau trận Như Nguyệt bị thiệt hại nặng, Quách Quỳ phải tổ chức phòng ngự ở bắc Sông Cầu trong tình thế "tiến thoái lưỡng nan".
Để sớm chấm dứt chiến tranh có lợi cho dân tộc, Lý Thường Kiệt chủ trương giảng hòa; Quách Quỳ buộc phải chấp thuận và rút quân về nước (3/1077). Ở phía nam, quân Chiêm Thành cũng không dám động binh. Chủ quyền và lãnh thổ đất nước được giữ vững.