<p>Tiến công chiến lược</p>
Là loại hình cơ bản của hoạt động tác chiến chiến lược của lực lượng vũ trang, được sử dụng nhằm đạt những mục đích chính trị - Quân sự có ý nghĩa chiến lược trong chiến tranh.
Được thực hiện bằng cách tiến hành các chiến dịch chiến lược và các hình thức hoạt động tác chiến khác, diễn ra trên một hoặc một số chiến trường tác chiến (hướng chiến lược) theo một ý định và kế hoạch thống nhất của Bộ Tổng tư lệnh.
Để đạt được mục đích, tiến công chiến lược phải đập tan được các tập đoàn chiến lược của lực lượng vũ trang đối phương, đôi khi còn loại khỏi vòng chiến một hoặc một số quốc gia và chiếm các vùng xung yếu chiến lược của đối phương, làm thay đổi cục diện chiến tranh hoặc kết thúc chiến tranh. Tiến công chiến lược có thể diễn ra thành giai đoạn quyết định của tiến trình chiến tranh và có thể kết thúc bằng cuộc tổng tiến công.
Trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam, tiến công chiến lược thường được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng giành quyền làm chủ trên quy mô lớn.
<p>Chiến dịch Biên giới Thu Đông, 1950</p>
Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Biên giới, 1950
Năm 1950, Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới trên địa bàn 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Tham gia chiến dịch có Đại đoàn 308, 2 trung đoàn Bộ binh, 4 đại đội Sơn pháo, 5 đại đội Công binh, 3 tiểu đoàn độc lập, cùng lực lượng vũ trang địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ra mặt trận chỉ đạo chiến dịch.
Sau gần 1 tháng chiến đấu (16/9-14/10/1950), quân ta đã mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, khai thông đường biên giới Việt-Trung từ Cao Bằng đến Móng Cái (Quảng Ninh), đánh dấu bước trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam, tạo cục diện mới góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Pháp sang giai đoạn phản công và tiến công chiến lược.
<p>Chiến dịch Tây Bắc, 1952</p>
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh kiêm Tư lệnh chiến dịch Tây Bắc cùng cán bộ tham gia chiến dịch nghiên cứu tấn công vị trí quân Pháp trên sa bàn, 1952
Chiến dịch Tây Bắc (14/10-10/12/1952), là chiến dịch tiến công của Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trên hướng Tây Bắc Việt Nam nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một bộ phận đất đai, phá âm mưu của Pháp lập "Xứ Thái tự trị". Tư lệnh chiến dịch Võ Nguyên Giáp.
Lực lượng tham gia gồm các đại đoàn 308, 312 và 316, Tiểu đoàn 910 (Trung đoàn 148), 6 đại đội sơn pháo 75mm, 3 đại đội súng cối 120mm, 1 trung đoàn công binh và 11 đại đội bộ đội địa phương. Lực lượng địch có 8 tiểu đoàn và 43 đại đội bộ binh, bố trí thành 144 cứ điểm thuộc bốn phân khu: Lai Châu, Sông Đà, Nghĩa Lộ, Sơn La và ba tiểu khu độc lập Thuận Châu, Phù Yên, Tuần Giáo; trong quá trình chiến dịch, được tăng viện thêm 9 tiểu đoàn bộ binh và dù Âu - Phi, 3 tiểu đoàn ngụy, 1 tiểu đoàn biệt kích hỗn hợp, 1 tiểu đoàn pháo binh.
Chiến dịch diễn ra 3 đợt: Việt Bắc và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch.
Đợt 1 (14-23/10), trận đánh mở màn phân khu Nghĩa Lộ, tiểu khu Phù Yên, tiêu diệt và bức rút hàng loạt cứ điểm, đập tan toàn bộ phòng tuyến vành ngoài của địch từ hữu ngạn Sông Thao đến tả ngạn Sông Đà, từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai. Pháp tăng viện cho Tây Bắc, dồn quân về xây dựng tập đoàn cứ điểm Nà Sản, đồng thời mở cuộc hành quân Loren đánh lên Phú Thọ (28/10) nhằm kéo chủ lực ta về đối phó, nhưng thất bại.
Đợt 2 (7-22/11), ta vượt Sông Đà, tiến công hệ thống phòng ngự của địch trên cao nguyên Mộc Châu, kết hợp vu hồi chiến dịch từ Quỳnh Nhai giải phóng Thuận Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ, buộc địch ở thị xã Sơn La rút chạy về Nà Sản.
Đợt 3 (30/11-10/12), tiến công địch ở Nà Sản không thành công.
Kết quả diệt và bắt hơn 6.000 địch (diệt gọn 4 tiểu đoàn và 28 đại đội), giải phóng một vùng rộng lớn ở địa bàn chiến lược quan trọng (khoảng 30.000km2 với 250.000 dân), nối liền vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh kiêm Tư lệnh chiến dịch Tây Bắc cùng cán bộ tham gia chiến dịch nghiên cứu tấn công vị trí quân Pháp trên sa bàn, 1952
Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Tây Bắc, 1952
Tám điều mệnh lệnh Của Chủ tịch Hồ Chí Minh được dịch ra chữ Thái cho bộ đội và dân công học tập trước khi tiến quân lên Tây Bắc, 1952
Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi động viên cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch Tây Bắc, 1952
Quay lại
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh kiêm Tư lệnh chiến dịch Tây Bắc cùng cán bộ tham gia chiến dịch nghiên cứu tấn công vị trí quân Pháp trên sa bàn, 1952
Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Tây Bắc, 1952
Tám điều mệnh lệnh Của Chủ tịch Hồ Chí Minh được dịch ra chữ Thái cho bộ đội và dân công học tập trước khi tiến quân lên Tây Bắc, 1952
Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi động viên cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch Tây Bắc, 1952
Quay lại
Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Tây Bắc, 1952
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh kiêm Tư lệnh chiến dịch Tây Bắc cùng cán bộ tham gia chiến dịch nghiên cứu tấn công vị trí quân Pháp trên sa bàn, 1952
Tám điều mệnh lệnh Của Chủ tịch Hồ Chí Minh được dịch ra chữ Thái cho bộ đội và dân công học tập trước khi tiến quân lên Tây Bắc, 1952
Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi động viên cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch Tây Bắc, 1952
Quay lại
Tám điều mệnh lệnh Của Chủ tịch Hồ Chí Minh được dịch ra chữ Thái cho bộ đội và dân công học tập trước khi tiến quân lên Tây Bắc, 1952
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh kiêm Tư lệnh chiến dịch Tây Bắc cùng cán bộ tham gia chiến dịch nghiên cứu tấn công vị trí quân Pháp trên sa bàn, 1952
Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Tây Bắc, 1952
Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi động viên cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch Tây Bắc, 1952
Quay lại
Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi động viên cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch Tây Bắc, 1952
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh kiêm Tư lệnh chiến dịch Tây Bắc cùng cán bộ tham gia chiến dịch nghiên cứu tấn công vị trí quân Pháp trên sa bàn, 1952
Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Tây Bắc, 1952
Tám điều mệnh lệnh Của Chủ tịch Hồ Chí Minh được dịch ra chữ Thái cho bộ đội và dân công học tập trước khi tiến quân lên Tây Bắc, 1952
<p>Chiến dịch Hòa Bình, 1951-1952</p>
Chiến dịch Hòa Bình (10/12/1951-25/2/1952), là chiến dịch tiến công của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ở khu vực thị xã Hòa Bình - Sông Đà - đường 6 nhằm diệt sinh lực, đập tan kế hoạch chiếm đóng Hòa Bình của Pháp. Tư lệnh chiến dịch Võ Nguyên Giáp.
Tiểu đoàn 23, Trung đoàn 88, Đại đoàn 308, chuẩn bị xuất kích đánh cứ điểm Tu Vũ, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, 12/1951
Lực lượng của ta tham gia gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312 và 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351 và lực lượng vũ trang địa phương; phối hợp với chiến dịch, các đại đoàn 316, 320 được lệnh tiến sâu vào vùng địch tạm chiếm ở đồng bằng Bắc Bộ, cùng lực lượng vũ trang địa phương đánh địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy, phá tề, trừ gian, mở rộng khu du kích. Về địch, sau khi đánh chiếm các vị trí then chốt khu vực Hòa Bình - đường 6, Sông Đà - Ba Vì, Pháp tổ chức phòng ngự thành 2 phân khu: Sông Đà - Ba Vì và Hòa Bình - đường 6, trong đó thị xã Hòa Bình được xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm; lực lượng gồm 13 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 4 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết giáp, 1 đại đội công binh và 1 trung đội xe tăng.
Chiến dịch diễn ra 3 đợt:
Đợt 1 (10-16/12/1951): Trận đánh cứ điểm Tu Vũ. Tập trung đột phá tuyến Sông Đà: đánh địch càn quét ở nam Ba Vì, tiến công diệt cứ điểm Tu Vũ, đánh nhiều trận phục kích cắt đứt tuyến vận chuyển của địch trên Sông Đà, uy hiếp đường 6, đồng thời đánh mạnh ở vùng địch hậu Bắc Ninh. Pháp rút bớt lực lượng cơ động từ Hòa Bình về Bắc Ninh để đối phó, nhưng ngay sau đó phải đưa quân trở lại cứu nguy cho Hòa Bình.
Đợt 2 (27-31/12/1951): Trận đánh thị xã Hoà Bình. Ta tiếp tục đánh mạnh hướng Sông Đà - Ba Vì, tập kích diệt địch ở các điểm cao 500 và 564; trên hướng đường 6 tiến công các cứ điểm Đồi Mồi, Hàm Voi, diệt được một bộ phận địch. Pháp cố gắng tăng viện cho Hòa Bình, vẫn không đánh thông được tuyến Sông Đà, phải chuyển sang củng cố tuyến đường 6, bảo vệ thị xã Hòa Bình.
Đợt 3 (7/1-25/2/1952): Chuyển hướng tiến công chủ yếu sang đường 6 và bao vây thị xã Hòa Bình: tập kích tiêu diệt trận địa pháo và 4 vị trí địch ở trung tâm và ngoại vi thị xã; đánh cắt giao thông, làm tê liệt vận chuyển của địch trên đường 6, nhưng đánh cứ điểm Pheo và Đầm Huống không thành công. Bị bao vây, cô lập ở Hòa Bình, lại bị đánh mạnh ở trung du, đồng bằng, sáng ngày 23/2 quân Pháp buộc phải rút khỏi Hòa Bình theo cách cuốn chiếu. Kết quả loại khỏi chiến đấu hơn 6.000 địch, bắn rơi 9 máy bay, bắn chìm 17 tàu, xuồng, phá hủy 12 khẩu pháo, hàng trăm xe vận tải, thu 24 khẩu pháo; giải phóng khu vực Hòa Bình - Sông Đà, giữ vững đường giao thông liên lạc giữa Việt Bắc với các liên khu 3 và 4, góp phần đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch, làm thất bại âm mưu giành lại quyền chủ động chiến lược và chia cắt chiến trường Bắc Bộ của Pháp.
Áo trấn thủ Anh hùng Cù Chính Lan, tiểu đội trưởng, đại đội 12, tiểu đoàn 353, trung đoàn 66, đại đoàn 304, mặc trong trận tiêu diệt xe tăng địch ở Giang Mỗ, xã Bình Thanh, tỉnh Hoà Bình, 12/1951
<p>Anh hùng Cù Chính Lan, 1930-1951</p>
Quay lại
Áo trấn thủ Anh hùng Cù Chính Lan, tiểu đội trưởng, đại đội 12, tiểu đoàn 353, trung đoàn 66, đại đoàn 304, mặc trong trận tiêu diệt xe tăng địch ở Giang Mỗ, xã Bình Thanh, tỉnh Hoà Bình, 12/1951
Quay lại
<p>Anh hùng Cù Chính Lan, 1930-1951</p>
Áo trấn thủ Anh hùng Cù Chính Lan, tiểu đội trưởng, đại đội 12, tiểu đoàn 353, trung đoàn 66, đại đoàn 304, mặc trong trận tiêu diệt xe tăng địch ở Giang Mỗ, xã Bình Thanh, tỉnh Hoà Bình, 12/1951
<p>Chiến dịch Trần Hưng Đạo, 1950-1951</p>
Chiến dịch Trần Hưng Đạo hay còn gọi là Chiến dịch Trung du (25/12/1950-18/1/1951), là chiến dịch tiến công của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do Bộ tổng tư lệnh trực tiếp tổ chức, chỉ huy đánh vào phòng tuyến của quân Pháp ở vùng trung du Bắc Bộ nhằm phát huy quyền chủ động chiến lược sau thắng lợi chiến dịch Biên Giới, mở rộng vùng căn cứ, phát triển chiến tranh du kích, tiêu diệt sinh lực và phá kế hoạch củng cố vùng tạm chiếm của địch. Tư lệnh kiêm bí thư Đảng uỷ chiến dịch Võ Nguyên Giáp.
Bộ Chỉ huy chiến dịch Trần Hưng Đạo họp bàn kế hoạch tiến công quân Pháp, tiêu diệt sinh lực địch, 12/1950
Lực lượng của ta tham gia chiến dịch gồm 2 đại đoàn (308 và 312), 4 liên đội sơn pháo 75mm (Trung đoàn 675), 4 tiểu đoàn địa phương và dân quân du kích; lực lượng phối hợp có hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang vùng duyên hải Đông Bắc và đồng bằng Sông Hồng. Lực lượng địch trên địa bàn chiến dịch có 8 tiểu đoàn và 8 đại đội chiếm đóng, 7 tiểu đoàn và 3 đại đội cơ động, 4 đại đội pháo binh.
Chiến dịch diễn ra 2 đợt:
Đợt 1 (25-29/12/1950), mở đầu bằng chặn đánh cuộc hành quân Becatxin của Pháp vào khu vực tập kết của ta ở Xuân Trạch - Liễn Sơn, buộc địch phải co về thị xã Vĩnh Yên. Đêm ngày 26 và ngày 27/12, ta vận động bao vây, tiến công diệt 5 cứ điểm kiên cố (Hữu Bằng, Tú Tạo, đồi Cà Phê, Yên Phụ, Thằn Lằn), nhưng đánh các cứ điểm Chợ Thá, Chợ Vàng không thành công. Địch tăng cường phòng thủ Vĩnh Yên.
Đợt 2 (30/12/1950-18/1/1951), vận dụng phương châm "đánh điểm diệt viện", ta tiến công diệt cứ điểm Ba Huyên, chặn đánh quân ứng cứu ở Thanh Vân - Đạo Tú, truy kích địch tới thị xã Vĩnh Yên và bao vây thị xã. Pháp tiếp tục đưa lực lượng cơ động có máy bay, pháo binh yểm trợ, mở cuộc hành quân giải tỏa, đánh chiếm Núi Đanh; ta chặn đánh và giành giật với địch từng điểm cao, nhưng phản kích chiếm lại điểm cao 210 không thành công. Kết quả loại khoảng 5.000 địch, giải phóng vùng bắc Vĩnh Yên và một phần Phúc Yên.
<p>Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 1951</p>
Chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, nghiên cứu kế hoạch tiến công quân Pháp trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (23/3-7/4/1951), là chiến dịch tiến công của Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vào tuyến phòng thủ của quân Pháp trên đường 18, với phương châm chiến dịch là "Đánh điểm diệt viện" nhằm diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích. Chiến dịch do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp tổ chức, chỉ huy Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng.
Lực lượng của ta tham gia gồm 2 đại đoàn (308 và 312), 2 trung đoàn bộ binh (98 và 174), 4 liên đội sơn pháo 75mm (Trung đoàn 675), 2 tiểu đoàn công binh và lực lượng vũ trang địa phương; hướng phối hợp có các đại đoàn 304 và 320 hoạt động kìm chân địch ở Vĩnh Phúc, Hà Đông, Hà Nam. Lực lượng địch phòng ngự ở khu vực đường 18 có 6 tiểu đoàn và 7 đại đội chiếm đóng, 2 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ động, 2 đại đội pháo binh (8 khẩu 105mm).
Chiến dịch diễn ra 2 đợt:
Đợt 1 (23-31/3), thực hiện phương pháp tác chiến đánh điểm diệt viện, ta tiến công diệt 5 vị trí ở phía bắc và đông nam Uông Bí để nhử viện, nhưng chờ 3 ngày địch không ra; ta tiếp tục diệt các cứ điểm Bí Chợ, Tràng Bạch và chuẩn bị tiến công Uông Bí. Bị cô lập và uy hiếp, quân Pháp ở Uông Bí rút chạy về Quảng Yên theo đường 18, nhưng ta không kịp chặn đánh. Đêm 29 và 30/3 ta tiến công các cứ điểm Mạo Khê Mỏ, Mạo Khê Phố không thành công và bỏ lỡ một số cơ hội diệt viện.
Đợt 2 (1-7/4), địch tăng cường lực lượng phòng giữ Đông Triều, Phả Lại. Ta tiến công các cứ điểm Bãi Thảo, Bến Tắm, Hoàng Gián, Hạ Chiểu đều không thành công, bị thương vong nhiều, phải kết thúc chiến dịch. Trong Chiến dịch Hoàng Hoa Thám ta loại khỏi chiến đấu hơn 1.300 địch nhưng không đạt mục tiêu đề ra.
Chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, nghiên cứu kế hoạch tiến công quân Pháp trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Sơ đồ diễn biến chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 1951
<p>Nhân dân Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, trở về nhà sau chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/19051</p>
Đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh của quân Pháp bị phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội, Dân công chuyển thương binh về hậu cứ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Đồn Lọc Nước của quân Pháp tại Quảng Ninh bị tấn công, phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Dân công vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội hành quân vào giải phóng Mạo Khê, tỉnh Quảng Ninh trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Quân Pháp tháo dỡ nhà dân về xây dựng đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, 3/1951
Quay lại
Chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, nghiên cứu kế hoạch tiến công quân Pháp trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Đêm ngày 23 tháng 3 năm 1951, mở đầu chiến dịch, QĐNDVN diệt gọn 3 vị trí Lọc Nước, Đập Nước, Sống Trâu, san bằng vị trí Lán Tháp. Tiểu đoàn 23 tiến công bốt Lọc Nước do một trung đội Pháp chiếm đóng, gặp nhiều khó khăn, bộ đội bị thương vong lớn (45 hy sinh, 125 bị thương). Tiểu đoàn 322 diệt hai vị trí Đập Nước và Sống Trâu, không có chiến sĩ nào bị thương vong. Trung đoàn 174 của Đại đoàn 316, cùng một liên đội pháo đánh vị trí Lán Tháp, diệt 14 lính, bắt 11, thu 22 súng các loại. Toàn bộ những bốt bảo vệ hệ thống dẫn nước ngọt từ Vàng Danh về Hải Phòng đều bị tiêu diệt.
Sơ đồ diễn biến chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 1951
<p>Nhân dân Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, trở về nhà sau chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/19051</p>
Đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh của quân Pháp bị phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội, Dân công chuyển thương binh về hậu cứ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Đồn Lọc Nước của quân Pháp tại Quảng Ninh bị tấn công, phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Dân công vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội hành quân vào giải phóng Mạo Khê, tỉnh Quảng Ninh trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Quân Pháp tháo dỡ nhà dân về xây dựng đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, 3/1951
Quay lại
Sơ đồ diễn biến chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 1951
Chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, nghiên cứu kế hoạch tiến công quân Pháp trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
<p>Nhân dân Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, trở về nhà sau chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/19051</p>
Đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh của quân Pháp bị phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội, Dân công chuyển thương binh về hậu cứ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Đồn Lọc Nước của quân Pháp tại Quảng Ninh bị tấn công, phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Dân công vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội hành quân vào giải phóng Mạo Khê, tỉnh Quảng Ninh trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Quân Pháp tháo dỡ nhà dân về xây dựng đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, 3/1951
Quay lại
<p>Nhân dân Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, trở về nhà sau chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/19051</p>
Chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, nghiên cứu kế hoạch tiến công quân Pháp trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Sơ đồ diễn biến chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 1951
Đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh của quân Pháp bị phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội, Dân công chuyển thương binh về hậu cứ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Đồn Lọc Nước của quân Pháp tại Quảng Ninh bị tấn công, phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Dân công vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội hành quân vào giải phóng Mạo Khê, tỉnh Quảng Ninh trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Quân Pháp tháo dỡ nhà dân về xây dựng đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, 3/1951
Quay lại
Đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh của quân Pháp bị phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, nghiên cứu kế hoạch tiến công quân Pháp trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Sơ đồ diễn biến chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 1951
<p>Nhân dân Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, trở về nhà sau chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/19051</p>
Bộ đội, Dân công chuyển thương binh về hậu cứ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Đồn Lọc Nước của quân Pháp tại Quảng Ninh bị tấn công, phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Dân công vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội hành quân vào giải phóng Mạo Khê, tỉnh Quảng Ninh trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Quân Pháp tháo dỡ nhà dân về xây dựng đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, 3/1951
Quay lại
Bộ đội, Dân công chuyển thương binh về hậu cứ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, nghiên cứu kế hoạch tiến công quân Pháp trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Sơ đồ diễn biến chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 1951
<p>Nhân dân Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, trở về nhà sau chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/19051</p>
Đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh của quân Pháp bị phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Đồn Lọc Nước của quân Pháp tại Quảng Ninh bị tấn công, phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Dân công vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội hành quân vào giải phóng Mạo Khê, tỉnh Quảng Ninh trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Quân Pháp tháo dỡ nhà dân về xây dựng đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, 3/1951
Quay lại
Đồn Lọc Nước của quân Pháp tại Quảng Ninh bị tấn công, phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, nghiên cứu kế hoạch tiến công quân Pháp trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Sơ đồ diễn biến chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 1951
<p>Nhân dân Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, trở về nhà sau chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/19051</p>
Đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh của quân Pháp bị phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội, Dân công chuyển thương binh về hậu cứ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Dân công vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội hành quân vào giải phóng Mạo Khê, tỉnh Quảng Ninh trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Quân Pháp tháo dỡ nhà dân về xây dựng đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, 3/1951
Quay lại
Dân công vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, nghiên cứu kế hoạch tiến công quân Pháp trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Sơ đồ diễn biến chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 1951
<p>Nhân dân Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, trở về nhà sau chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/19051</p>
Đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh của quân Pháp bị phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội, Dân công chuyển thương binh về hậu cứ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Đồn Lọc Nước của quân Pháp tại Quảng Ninh bị tấn công, phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội hành quân vào giải phóng Mạo Khê, tỉnh Quảng Ninh trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Quân Pháp tháo dỡ nhà dân về xây dựng đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, 3/1951
Quay lại
Bộ đội hành quân vào giải phóng Mạo Khê, tỉnh Quảng Ninh trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, nghiên cứu kế hoạch tiến công quân Pháp trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Sơ đồ diễn biến chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 1951
<p>Nhân dân Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, trở về nhà sau chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/19051</p>
Đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh của quân Pháp bị phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội, Dân công chuyển thương binh về hậu cứ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Đồn Lọc Nước của quân Pháp tại Quảng Ninh bị tấn công, phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Dân công vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Quân Pháp tháo dỡ nhà dân về xây dựng đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, 3/1951
Quay lại
Quân Pháp tháo dỡ nhà dân về xây dựng đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, 3/1951
Chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, nghiên cứu kế hoạch tiến công quân Pháp trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Sơ đồ diễn biến chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 1951
<p>Nhân dân Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, trở về nhà sau chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/19051</p>
Đồn Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh của quân Pháp bị phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội, Dân công chuyển thương binh về hậu cứ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Đồn Lọc Nước của quân Pháp tại Quảng Ninh bị tấn công, phá hủy trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Dân công vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
Bộ đội hành quân vào giải phóng Mạo Khê, tỉnh Quảng Ninh trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 3/1951
<p>Chiến dịch Quang Trung, 5-6/1951</p>
Chiến dịch Quang Trung hay còn gọi là Chiến dịch Hà Nam Ninh (28/5-20/6/1951), là chiến dịch tiến công của Lực lượng vũ trang nhận dân Việt Nam vào phòng tuyến Sông Đáy của quân Pháp từ nam Phủ Lí (Hà Nam) đến Yên Mô (Ninh Bình), nhằm diệt sinh lực địch, phá khối ngụy quân, đẩy mạnh chiến tranh du kích, tranh thủ nhân dân. Tư lệnh kiêm bí thư Đảng uỷ chiến dịch Võ Nguyên Giáp.
Chỉ huy Đại đoàn 320 phổ biến kế hoạch tác chiến trong chiến dịch Quang Trung, 1951
Lực lượng của ta tham gia gồm 3 đại đoàn (308, 304 và 320), 5 đại đội sơn pháo, 1 trung đoàn công binh và các lực lượng vũ trang địa phương, do Bộ tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Lực lượng của địch có: 4 tiểu đoàn và 27 đại đội chiếm đóng, 4 tiểu đoàn và 5 đại đội cơ động ứng chiến. Phối hợp với chiến dịch, có hoạt động tác chiến của các lực lượng vũ trang ở tả ngạn Sông Hồng.
Chiến dịch chia thành 2 đợt:
Đợt 1 (28-31/5): Trận Non Nước. Trên hướng Ninh Bình ta tiến công vào thị xã, diệt địch ở nhà thờ Đại Phong, các cứ điểm Non Nước, Gối Hạc; diệt 6 cứ điểm nhỏ ở khu vực Yên Mô - Yên Khánh, đánh địch ở Chùa Hữu, Yên Thịnh rút chạy; hướng nam Hà Đông, ta diệt 3 cứ điểm, đánh viện trên đoạn Đoan Vĩ - Mai Cầu - Kinh Đông. Pháp đưa lực lượng từ Nam Định sang phản kích và tăng cường phòng thủ các trọng điểm: tx Ninh Bình, Phủ Lí, Hoàng Đan.
Đợt 2 (01-20/6): Trận Ninh Bình năm 1951 và Trận Chùa Cao. Ta tiến công cứ điểm Chùa Cao (lần 2) không thành công; đánh các cứ điểm Cầu Bút, Ngọc Cầm không diệt gọn; bức hàng vị trí Núi Sậu và đánh viện trên đoạn Ninh Bình - Yên Phú. Từ ngày 8/6 ta chủ trương mỗi đại đoàn để lại 1 trung đoàn cùng lực lượng vũ trang địa phương chống địch càn quét, củng cố cơ sở, giúp dân thu hoạch mùa màng. Kết quả loại khỏi chiến đấu hơn 4.000 địch, tiêu diệt và bức rút 23 vị trí, góp phần thúc đẩy chiến tranh du kích vùng đồng bằng Bắc Bộ.
<p>Chiến dịch Thượng Lào, 1953</p>
Chiến dịch Thượng Lào (13/4-18/5/1953) là chiến dịch tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp với Quân đội Pathét Lào trên địa bàn hai tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, mở rộng căn cứ kháng chiến của nhân dân Lào. Tư lệnh chiến dịch Võ Nguyên Giáp.
Dân công Lào phục vụ chiến dịch Thượng Lào, 1953
Sau khi sử dụng Đại đoàn 316 đánh vào Nà Sản để nghi binh, ngày 8/4 bộ đội chủ lực Việt Nam bí mật tiến sang Thượng Lào theo 3 hướng:
Hướng chủ yếu: Các Đại đoàn 308, 312 và 316 được tăng cường 4 đại đội sơn pháo, 2 tiểu đoàn pháo phòng không, 3 đại đội súng cối, 1 tiểu đoàn công binh và 1 đại đội trinh sát theo đường 6 sang Sầm Nưa.
Hướng thứ yếu: Đại đoàn 304 được tăng cường 1 đại đội sơn pháo, 1 đại đội súng cối và 1 tiểu đoàn pháo phòng không theo đường 7 sang Xiêng Khoảng, chặn đường rút của địch từ Sầm Nưa xuống.
Hướng phối hợp: Trung đoàn 148 theo lưu vực sông Nậm Hu xuống uy hiếp Luôngphabăng. Phát hiện lực lượng ta, đêm ngày 12/4 địch rút chạy khỏi Sầm Nưa. Ta chuyển sang truy kích: đêm ngày 13/4 đuổi kịp và tiêu diệt bộ phận cuối của địch ở Mường Hàm, bắt toàn bộ lực lượng cầm đầu ngụy quyền tỉnh Sầm Nưa; 9 giờ 14/4 đánh địch ở Nà Noọng, diệt và bắt gần 300 quân; 7 giờ 16/4 đuổi kịp bộ phận đi đầu ở Hứa Mường, tiêu diệt và làm tan rã 4 đại đội, tiếp tục đuổi địch đến sát Cánh Đồng Chum. Hướng đường 7, ta bao vây tiến công Noọng Hét, buộc địch rút chạy khỏi Bản Ban, Xiêng Khoảng về Cánh Đồng Chum. Hướng Phongxalì - Mường Sài, ta giải phóng Mường Ngòi, Bản Sẻ, Pắc Soòng, Nậm Bạc, uy hiếp Luôngphabăng. Ngày 18/5 chiến dịch kết thúc với trận tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Mường Khoa.
Kết quả liên quân Lào - Việt diệt và bắt gần 2.800 địch, giải phóng tỉnh Sầm Nưa, một phần Xiêng Khoảng và tỉnh Phongxalì với diện tích hơn 4.000km² và hơn 300.000 dân; mở rộng căn cứ kháng chiến của Lào, nối liền với vùng Tây Bắc Việt Nam.
Chính phủ kháng chiến Lào tặng cờ thưởng cho bộ đội tình nguyện Việt Nam sau chiến thắng Thượng Lào, 1953
Liên hoan mừng chiến thắng giữa quân dân Việt - Lào sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào chiến đấu trong chiến dịch Thượng Lào, 1953
Dân công Lào phục vụ chiến dịch Thượng Lào, 1953
Lễ mừng chiến thắng giải phóng thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào) sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào đánh chiếm thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào), 13/4/1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam hành quân tham gia chiến dịch Thượng Lào, 1953
Sơ đồ Chiến dịch Thượng Lào, 1953
Quay lại
Chính phủ kháng chiến Lào tặng cờ thưởng cho bộ đội tình nguyện Việt Nam sau chiến thắng Thượng Lào, 1953
Liên hoan mừng chiến thắng giữa quân dân Việt - Lào sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào chiến đấu trong chiến dịch Thượng Lào, 1953
Dân công Lào phục vụ chiến dịch Thượng Lào, 1953
Lễ mừng chiến thắng giải phóng thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào) sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào đánh chiếm thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào), 13/4/1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam hành quân tham gia chiến dịch Thượng Lào, 1953
Sơ đồ Chiến dịch Thượng Lào, 1953
Quay lại
Liên hoan mừng chiến thắng giữa quân dân Việt - Lào sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Chính phủ kháng chiến Lào tặng cờ thưởng cho bộ đội tình nguyện Việt Nam sau chiến thắng Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào chiến đấu trong chiến dịch Thượng Lào, 1953
Dân công Lào phục vụ chiến dịch Thượng Lào, 1953
Lễ mừng chiến thắng giải phóng thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào) sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào đánh chiếm thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào), 13/4/1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam hành quân tham gia chiến dịch Thượng Lào, 1953
Sơ đồ Chiến dịch Thượng Lào, 1953
Quay lại
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào chiến đấu trong chiến dịch Thượng Lào, 1953
Chính phủ kháng chiến Lào tặng cờ thưởng cho bộ đội tình nguyện Việt Nam sau chiến thắng Thượng Lào, 1953
Liên hoan mừng chiến thắng giữa quân dân Việt - Lào sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Dân công Lào phục vụ chiến dịch Thượng Lào, 1953
Lễ mừng chiến thắng giải phóng thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào) sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào đánh chiếm thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào), 13/4/1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam hành quân tham gia chiến dịch Thượng Lào, 1953
Sơ đồ Chiến dịch Thượng Lào, 1953
Quay lại
Dân công Lào phục vụ chiến dịch Thượng Lào, 1953
Chính phủ kháng chiến Lào tặng cờ thưởng cho bộ đội tình nguyện Việt Nam sau chiến thắng Thượng Lào, 1953
Liên hoan mừng chiến thắng giữa quân dân Việt - Lào sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào chiến đấu trong chiến dịch Thượng Lào, 1953
Lễ mừng chiến thắng giải phóng thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào) sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào đánh chiếm thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào), 13/4/1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam hành quân tham gia chiến dịch Thượng Lào, 1953
Sơ đồ Chiến dịch Thượng Lào, 1953
Quay lại
Lễ mừng chiến thắng giải phóng thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào) sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Chính phủ kháng chiến Lào tặng cờ thưởng cho bộ đội tình nguyện Việt Nam sau chiến thắng Thượng Lào, 1953
Liên hoan mừng chiến thắng giữa quân dân Việt - Lào sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào chiến đấu trong chiến dịch Thượng Lào, 1953
Dân công Lào phục vụ chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào đánh chiếm thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào), 13/4/1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam hành quân tham gia chiến dịch Thượng Lào, 1953
Sơ đồ Chiến dịch Thượng Lào, 1953
Quay lại
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào đánh chiếm thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào), 13/4/1953
Chính phủ kháng chiến Lào tặng cờ thưởng cho bộ đội tình nguyện Việt Nam sau chiến thắng Thượng Lào, 1953
Liên hoan mừng chiến thắng giữa quân dân Việt - Lào sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào chiến đấu trong chiến dịch Thượng Lào, 1953
Dân công Lào phục vụ chiến dịch Thượng Lào, 1953
Lễ mừng chiến thắng giải phóng thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào) sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam hành quân tham gia chiến dịch Thượng Lào, 1953
Sơ đồ Chiến dịch Thượng Lào, 1953
Quay lại
Bộ đội tình nguyện Việt Nam hành quân tham gia chiến dịch Thượng Lào, 1953
Chính phủ kháng chiến Lào tặng cờ thưởng cho bộ đội tình nguyện Việt Nam sau chiến thắng Thượng Lào, 1953
Liên hoan mừng chiến thắng giữa quân dân Việt - Lào sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào chiến đấu trong chiến dịch Thượng Lào, 1953
Dân công Lào phục vụ chiến dịch Thượng Lào, 1953
Lễ mừng chiến thắng giải phóng thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào) sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào đánh chiếm thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào), 13/4/1953
Sơ đồ Chiến dịch Thượng Lào, 1953
Quay lại
Sơ đồ Chiến dịch Thượng Lào, 1953
Chiến dịch Thượng Lào (13/4-18/5/1953), là chiến dịch tiến công của QĐND VN phối hợp với QĐ Pathét Lào trên địa bàn hai tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, mở rộng căn cứ kháng chiến của nhân dân Lào. Tư lệnh chiến dịch Võ Nguyên Giáp.
Chính phủ kháng chiến Lào tặng cờ thưởng cho bộ đội tình nguyện Việt Nam sau chiến thắng Thượng Lào, 1953
Liên hoan mừng chiến thắng giữa quân dân Việt - Lào sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào chiến đấu trong chiến dịch Thượng Lào, 1953
Dân công Lào phục vụ chiến dịch Thượng Lào, 1953
Lễ mừng chiến thắng giải phóng thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào) sau chiến dịch Thượng Lào, 1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào đánh chiếm thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn (Lào), 13/4/1953
Bộ đội tình nguyện Việt Nam hành quân tham gia chiến dịch Thượng Lào, 1953
<p>Chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3 - 7/5/1954</p>
Chiến dịch quyết chiến chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm tiêu diệt quân Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giành thắng lợi quyết định trong chiến cục Đông Xuân (1953 - 1954). Chiến dịch do Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ chiến dịch, Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng, Lê Liêm làm Chủ nhiệm chính trị, Đặng Kim Giang làm Chủ nhiệm cung cấp.
Bộ chính trị Trung ương Đảng họp quyết định chủ trương mở chiến dịch Điện Biên Phủ, 6/12/1953.
Lực lượng tham gia gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312 và 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351.
Lực lượng quân Pháp ở Điện Biên Phủ: 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay (trong quá trình chiến dịch được tăng viện 4 tiểu đoàn và 2 đại đội dù), tổ chức phòng ngự thành 3 phân khu, 8 trung tâm đề kháng, gồm 49 cứ điểm được trang bị hỏa lực mạnh, có 2 căn cứ hỏa lực và 2 sân bay ở Mường Thanh và Hồng Cúm.
Chiến dịch dự định bắt đầu 25/1/1954 (kế hoạch đầu tiên là 20/1/1954), theo phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh", nhưng do địch đã tăng cường binh lực và củng cố hệ thống phòng ngự vững chắc, đồng thời về phía ta, việc đưa pháo vào trận địa và công tác tổ chức hiệp đồng chiến đấu bộ binh - pháo binh chưa hoàn tất, nên Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sửa đổi kế hoạch, tiếp tục chuẩn bị mọi mặt, chuyển sang thực hiện phương châm "đánh chắc tiến chắc", dùng cách đánh vây hãm tiến công, đột phá lần lượt để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm.
Chiều 13/3/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, diễn biến qua 3 đợt.
Đợt 1 (13-17/3), ta đập tan thế trận phòng ngự vòng ngoài của địch ở phía bắc và đông bắc, mở đầu bằng trận Him Lam (13/3/1954), tiếp đó tiêu diệt cụm cứ điểm đồi Độc Lập, bao vây, bức hàng cụm cứ điểm Bản Kéo (16/3/1954), đánh bại nhiều đợt phản kích của địch.
Đợt 2 (30/3-30/4), sau hơn 10 ngày xây dựng trận địa tiến công và bao vây với hàng trăm kilômét hào giao thông, hàng ngàn công sự và ụ súng các loại, ta tiến công diệt các cứ điểm E, D1, D2, C1 trên dãy đồi phía đông và 106, 311 trên hướng tây - bắc sân bay Mường Thanh, nhưng đánh cứ điểm và các cứ điểm C2, 105 không thành công, bị địch phản kích chiếm lại nửa đồi C1. Từ ngày 16/4 ta phát triển trận địa bao vây, tiến công, đánh lấn diệt các cứ điểm 105, 206 đào hào cắt đôi sân bay Mường Thanh, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch nhằm giành lại sân bay, kết hợp bắn tỉa và đưa pháo phòng không xuống cánh đồng Mường Thanh khống chế rồi triệt hẳn tiếp tế đường không của địch.
Đợt 3 (1-7/5), ta lần lượt đánh chiếm các điểm cao còn lại ở phía đông (C1, C2 và A1), diệt một số cứ điểm ở phía tây, tăng cường vây ép phân khu Hồng Cúm, bao vây uy hiếp Sở Chỉ huy trung tâm, dập tắt hi vọng rút chạy của địch; 15 giờ ngày 7/5 tổng công kích vào trung tâm Mường Thanh, bắt tướng Đờ Caxtơri và toàn bộ ban tham mưu tập đoàn cứ điểm, buộc số địch còn lại ở phân khu trung tâm phải đầu hàng, truy kích và bắt gọn bộ phận địch ở Hồng Cúm định rút chạy.
Chiến dịch Điện Biên Phủ giành toàn thắng, diệt và bắt hơn 16.200 địch (có 1 thiếu tướng, 369 sĩ quan từ đại tá đến thiếu úy), thu toàn bộ vũ khí trang bị, bắn rơi 62 máy bay. Chiến dịch Điện Biên Phủ là đòn tiến công tiêu diệt lớn nhất, điển hình nhất của quân và dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, cùng với thắng lợi trên các chiến trường khác trong Đông Xuân 1953-54 giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơnevơ về Đông Dương (8/5-21/7/1954) đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp quyết định chủ trương mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, 6/12/1953</p>
Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo ở vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam dài khoảng 18km rộng từ 6 đến 8 km, núi cao bao bọc xung quanh. Để đối phó với hoạt động của ta trong Đông Xuân 1953 – 1954. Na va quyết định xây dựng tại Điện Biên Phủ một tập đoàn cứ điểm mạnh.
Ngày 20/11/1953 bầu trời Điện Biên Phủ bị khuấy động bởi tiếng các máy bay Dakota gầm rú, chỉ trong 2 ngày Pháp đã điều động 6 tiểu đoàn với 5100 lính dù và 240 tấn vũ khí nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Pháp quyết định bỏ Lai Châu, rút lực lượng về tiếp tục tăng cường cho Điện Biên Phủ. Ngày 7-12-1953, Nava cử đại tá Đờ Cát-xtơ-ri lên chỉ huy Tập đoàn cứ điểm, tăng cường lực lượng, xây dựng công sự phòng ngự.
Điện Biên Phủ đã trở thành 1 tập đoàn cứ điểm mạnh gồm 3 phân khu với 49 cứ điểm.
Một: Phân khu Hồng Cúm ở phía nam
Hai: Phân khu Bắc gồm 2 trung tâm Độc Lập và Bản Kéo.
Ba: Phân khu trung tâm quan trọng nhất gồm 5 cụm cứ điểm với 2/3 lực lượng: - Cụm Him Lam, cụm Tây Bắc và Tây Nam có các cứ điểm:105, 106, 206, 311, 311a, 311b, 310. - Hai cụm trên các dãy đồi phía đông có các cứ điểm E1, D1, D2, C1, C2, A1. Dưới đất còn có các cứ điểm: 505, 505a, 506, 507, 508, 509, 210. - Chính giữa là sở chỉ huy của tướng Đờ Cát -Xtơ-ri có nhiều cứ điểm bao quanh. Hỏa lực pháo binh và 2 sân bay được bố trí ở Mường Thanh và Hồng Cúm. Cả Pháp và Mỹ đều cho rằng Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm mạnh nhất chưa từng có ở Đông Dương, là pháo đài không thể công phá.
Tại Tỉn Keo, ngày 6/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị về kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ. Hội nghị nhận định: "Điện Biên Phủ sẽ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng chúng có cái yếu cơ bản là bị cô lập mọi việc tiếp viện tiếp tế đều phải dựa vào đường không". Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ với mật danh“Trần Đình”. Thành lập Đảng ủy mặt trận Điện Biên Phủ và cử đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tư lệnh chiến dịch làm Bí thư Đảng ủy. Quân Pháp đã xây dựng được ở Điện Biên Phủ một tập đoàn cứ điểm mạnh thay vì ở trạng thái lâm thời phòng ngự như trước đó.
<p>Sơ đồ diễn biến đợt 3: Tổng tấn công, 01/05/1954 - 07/05/1954</p>
Tướng Đờ Cát-tơ-ri và toàn bộ Bộ tham mưu Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đầu hàng hồi 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954
Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát-tơ-ri, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 7/5/1954
Tiểu đoàn Pháo cao xạ 383, Trung đoàn 367, Đại đoàn công pháo 351 quan sát chiến trường và làm chủ bầu trời Điện Biên Phủ, 1954
Đại đội 806, Tiểu đoàn 954, Trung đoàn 45, Đại đoàn 351 bắn trúng các vị trí của Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Quay lại
Tướng Đờ Cát-tơ-ri và toàn bộ Bộ tham mưu Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đầu hàng hồi 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954
Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát-tơ-ri, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 7/5/1954
Tiểu đoàn Pháo cao xạ 383, Trung đoàn 367, Đại đoàn công pháo 351 quan sát chiến trường và làm chủ bầu trời Điện Biên Phủ, 1954
Đại đội 806, Tiểu đoàn 954, Trung đoàn 45, Đại đoàn 351 bắn trúng các vị trí của Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Quay lại
Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát-tơ-ri, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 7/5/1954
Tướng Đờ Cát-tơ-ri và toàn bộ Bộ tham mưu Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đầu hàng hồi 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954
Tiểu đoàn Pháo cao xạ 383, Trung đoàn 367, Đại đoàn công pháo 351 quan sát chiến trường và làm chủ bầu trời Điện Biên Phủ, 1954
Đại đội 806, Tiểu đoàn 954, Trung đoàn 45, Đại đoàn 351 bắn trúng các vị trí của Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Quay lại
Tiểu đoàn Pháo cao xạ 383, Trung đoàn 367, Đại đoàn công pháo 351 quan sát chiến trường và làm chủ bầu trời Điện Biên Phủ, 1954
Tướng Đờ Cát-tơ-ri và toàn bộ Bộ tham mưu Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đầu hàng hồi 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954
Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát-tơ-ri, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 7/5/1954
Đại đội 806, Tiểu đoàn 954, Trung đoàn 45, Đại đoàn 351 bắn trúng các vị trí của Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Quay lại
Đại đội 806, Tiểu đoàn 954, Trung đoàn 45, Đại đoàn 351 bắn trúng các vị trí của Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Tướng Đờ Cát-tơ-ri và toàn bộ Bộ tham mưu Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đầu hàng hồi 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954
Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát-tơ-ri, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 7/5/1954
Tiểu đoàn Pháo cao xạ 383, Trung đoàn 367, Đại đoàn công pháo 351 quan sát chiến trường và làm chủ bầu trời Điện Biên Phủ, 1954
<p>Thi hành Hiệp Định Geneva - Hội nghị Geneva (Thụy Sỹ) năm 1954 bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương</p>
<p>Những người lính Pháp cuối cùng rút khỏi miền Bắc Việt Nam, 5/1955</p>
<p>Mittinh chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ, Hồ Chủ tịch về Thủ đô, 1/1955</p>
<p>Bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954</p>
Quay lại
<p>Những người lính Pháp cuối cùng rút khỏi miền Bắc Việt Nam, 5/1955</p>
<p>Mittinh chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ, Hồ Chủ tịch về Thủ đô, 1/1955</p>
<p>Bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954</p>
Quay lại
<p>Mittinh chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ, Hồ Chủ tịch về Thủ đô, 1/1955</p>
<p>Những người lính Pháp cuối cùng rút khỏi miền Bắc Việt Nam, 5/1955</p>
<p>Bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954</p>
Quay lại
<p>Bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954</p>
<p>Những người lính Pháp cuối cùng rút khỏi miền Bắc Việt Nam, 5/1955</p>
<p>Mittinh chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ, Hồ Chủ tịch về Thủ đô, 1/1955</p>
<p>Quang cảnh phiên họp Hội nghị Geneva bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương, 1954</p>
Hội nghị Geneva tiến hành qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (từ 08/5/1954 đến 19/6/1954), diễn ra 4 phiên họp toàn thể và 8 phiên họp cấp Trưởng đoàn, Hội nghị thống nhất: Ngừng bắn toàn diện và đồng thời; đại diện hai Bộ Tư lệnh gặp nhau ở Geneva để bàn về bố trí lực lượng theo thỏa thuận đình chiến.
Giai đoạn 2 (từ 20/6/1954 đến 10/7/1954): Trưởng đoàn các nước về báo cáo, Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng ở lại. Các cuộc họp hẹp bàn các vấn đề tập kết, chuyển quân, thả tù binh, đi lại giữa hai miền.
Giai đoạn 3 (từ 11 đến 21/7/1954): Nối lại các cuộc đàm phán cấp Bộ trưởng. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đoàn Pháp đàm phán về phân chia vĩ tuyến; thời hạn tổ chức tổng tuyển cử. Ngày 21/7/1954, Hội nghị Geneva thông qua tuyên bố chung về lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Thiếu tướng Đel-tây-lơ thay mặt Bộ Tư lệnh Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương ký Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, 20/7/1954
Đồng chí Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt Chính phủ và Quân đội nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, 20/7/1954
Quay lại
Thiếu tướng Đel-tây-lơ thay mặt Bộ Tư lệnh Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương ký Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, 20/7/1954
Đồng chí Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt Chính phủ và Quân đội nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, 20/7/1954
Quay lại
Đồng chí Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt Chính phủ và Quân đội nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, 20/7/1954
Thiếu tướng Đel-tây-lơ thay mặt Bộ Tư lệnh Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương ký Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, 20/7/1954
<p>Hội đồng Hòa bình thế giới họp tại Berlin, Đức, yêu cầu Hội nghị Geneva thống nhất chấm dứt chiến tranh của Pháp ở Việt Nam, 5/1954</p>
Nhân dân Pháp biểu tình đòi chấm dứt chiến tranh và công nhận độc lập, chủ quyền của nhân dân Việt Nam, 6/1954
Quay lại
Nhân dân Pháp biểu tình đòi chấm dứt chiến tranh và công nhận độc lập, chủ quyền của nhân dân Việt Nam, 6/1954
<p>Chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3 - 7/5/1954</p>
Chiến dịch quyết chiến chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm tiêu diệt quân Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giành thắng lợi quyết định trong chiến cục Đông Xuân (1953 - 1954). Chiến dịch do Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ chiến dịch, Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng, Lê Liêm làm Chủ nhiệm chính trị, Đặng Kim Giang làm Chủ nhiệm cung cấp.
Bộ chính trị Trung ương Đảng họp quyết định chủ trương mở chiến dịch Điện Biên Phủ, 6/12/1953.
Lực lượng tham gia gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312 và 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351.
Lực lượng quân Pháp ở Điện Biên Phủ: 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay (trong quá trình chiến dịch được tăng viện 4 tiểu đoàn và 2 đại đội dù), tổ chức phòng ngự thành 3 phân khu, 8 trung tâm đề kháng, gồm 49 cứ điểm được trang bị hỏa lực mạnh, có 2 căn cứ hỏa lực và 2 sân bay ở Mường Thanh và Hồng Cúm.
Chiến dịch dự định bắt đầu 25/1/1954 (kế hoạch đầu tiên là 20/1/1954), theo phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh", nhưng do địch đã tăng cường binh lực và củng cố hệ thống phòng ngự vững chắc, đồng thời về phía ta, việc đưa pháo vào trận địa và công tác tổ chức hiệp đồng chiến đấu bộ binh - pháo binh chưa hoàn tất, nên Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sửa đổi kế hoạch, tiếp tục chuẩn bị mọi mặt, chuyển sang thực hiện phương châm "đánh chắc tiến chắc", dùng cách đánh vây hãm tiến công, đột phá lần lượt để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm.
Chiều 13/3/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, diễn biến qua 3 đợt.
Đợt 1 (13-17/3), ta đập tan thế trận phòng ngự vòng ngoài của địch ở phía bắc và đông bắc, mở đầu bằng trận Him Lam (13/3/1954), tiếp đó tiêu diệt cụm cứ điểm đồi Độc Lập, bao vây, bức hàng cụm cứ điểm Bản Kéo (16/3/1954), đánh bại nhiều đợt phản kích của địch.
Đợt 2 (30/3-30/4), sau hơn 10 ngày xây dựng trận địa tiến công và bao vây với hàng trăm kilômét hào giao thông, hàng ngàn công sự và ụ súng các loại, ta tiến công diệt các cứ điểm E, D1, D2, C1 trên dãy đồi phía đông và 106, 311 trên hướng tây - bắc sân bay Mường Thanh, nhưng đánh cứ điểm và các cứ điểm C2, 105 không thành công, bị địch phản kích chiếm lại nửa đồi C1. Từ ngày 16/4 ta phát triển trận địa bao vây, tiến công, đánh lấn diệt các cứ điểm 105, 206 đào hào cắt đôi sân bay Mường Thanh, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch nhằm giành lại sân bay, kết hợp bắn tỉa và đưa pháo phòng không xuống cánh đồng Mường Thanh khống chế rồi triệt hẳn tiếp tế đường không của địch.
Đợt 3 (1-7/5), ta lần lượt đánh chiếm các điểm cao còn lại ở phía đông (C1, C2 và A1), diệt một số cứ điểm ở phía tây, tăng cường vây ép phân khu Hồng Cúm, bao vây uy hiếp Sở Chỉ huy trung tâm, dập tắt hi vọng rút chạy của địch; 15 giờ ngày 7/5 tổng công kích vào trung tâm Mường Thanh, bắt tướng Đờ Caxtơri và toàn bộ ban tham mưu tập đoàn cứ điểm, buộc số địch còn lại ở phân khu trung tâm phải đầu hàng, truy kích và bắt gọn bộ phận địch ở Hồng Cúm định rút chạy.
Chiến dịch Điện Biên Phủ giành toàn thắng, diệt và bắt hơn 16.200 địch (có 1 thiếu tướng, 369 sĩ quan từ đại tá đến thiếu úy), thu toàn bộ vũ khí trang bị, bắn rơi 62 máy bay. Chiến dịch Điện Biên Phủ là đòn tiến công tiêu diệt lớn nhất, điển hình nhất của quân và dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, cùng với thắng lợi trên các chiến trường khác trong Đông Xuân 1953-54 giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơnevơ về Đông Dương (8/5-21/7/1954) đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Toàn cảnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại tướng Ô-da-ni-en - Chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Khánh Tiết - Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với dân công hỏa tuyến, Thanh niên xung phong làm nhiệm vụ sửa đường trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp</p>
<p>Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Quân đội thăm hỏi các chiến sỹ lập chiến công trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, tại Giang Tiên, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, 1954</p>
Quay lại
<p>Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Quân đội thăm hỏi các chiến sỹ lập chiến công trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, tại Giang Tiên, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, 1954</p>
<p>Vận chuyển bằng xe đạp thồ - Nhân dân Thanh Hóa tiễn đưa các đoàn dân công xe thồ lên đường phục vụ tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng ra chiến trường, trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Cừ, dân công tỉnh Thái Nguyên được thưởng Huân chương chiến sĩ hạng 3 vê thành tích thồ 250kg/chuyến trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ông Ma Văn Thắng và chiếc xe đạp thồ hàng cho chiến dịch</p>
<p>Cao Văn Tỵ "kiện tướng" xe đạp thồ</p>
<p>Đoàn xe đạp thồ dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực cho mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vượt mọi khó khăn, đảm bảo thời gian vận chuyển lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng phục vụ bộ đội chiến đấu tại chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Hàng vạn chiếc xe đạp thồ chở lương thực, vũ khí vào chiến trường Điện Biên Phủ trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội chở thuốc men phục vụ bộ đội tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
Quay lại
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng ra chiến trường, trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Cừ, dân công tỉnh Thái Nguyên được thưởng Huân chương chiến sĩ hạng 3 vê thành tích thồ 250kg/chuyến trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ông Ma Văn Thắng và chiếc xe đạp thồ hàng cho chiến dịch</p>
<p>Cao Văn Tỵ "kiện tướng" xe đạp thồ</p>
<p>Đoàn xe đạp thồ dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực cho mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vượt mọi khó khăn, đảm bảo thời gian vận chuyển lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng phục vụ bộ đội chiến đấu tại chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Hàng vạn chiếc xe đạp thồ chở lương thực, vũ khí vào chiến trường Điện Biên Phủ trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội chở thuốc men phục vụ bộ đội tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
Quay lại
<p>Anh Nguyễn Văn Cừ, dân công tỉnh Thái Nguyên được thưởng Huân chương chiến sĩ hạng 3 vê thành tích thồ 250kg/chuyến trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng ra chiến trường, trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Ông Ma Văn Thắng và chiếc xe đạp thồ hàng cho chiến dịch</p>
<p>Cao Văn Tỵ "kiện tướng" xe đạp thồ</p>
<p>Đoàn xe đạp thồ dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực cho mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vượt mọi khó khăn, đảm bảo thời gian vận chuyển lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng phục vụ bộ đội chiến đấu tại chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Hàng vạn chiếc xe đạp thồ chở lương thực, vũ khí vào chiến trường Điện Biên Phủ trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội chở thuốc men phục vụ bộ đội tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
Quay lại
<p>Ông Ma Văn Thắng và chiếc xe đạp thồ hàng cho chiến dịch</p>
Đầu tháng 1/1954, ông Ma Văn Thắng, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã Thanh Minh, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ gia nhập đoàn dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Ông được phân công làm Đoàn trưởng Đoàn xe đạp thồ tỉnh Phú Thọ gồm 100 người, có phiên hiệu là T20. Nhiệm vụ của Đoàn T20 là chở hàng từ kho Âu Lạc (Yên Bái) lên chân đèo Pha đin (tỉnh Sơn La).
Trong quá trình vận chuyển, ông đã có sáng kiến buộc thêm một đoạn tre nhỏ, dài khoảng 1 mét, gọi là "tay ngai" vào ghi-đông để điều khiển; một đoạn tre cao hơn yên xe khoảng 50 cm buộc vào trục yên, vừa giúp giữ thăng bằng, vừa đẩy xe đi; hàn thêm sắt, buộc thêm gỗ để tăng độ cứng của khung xe; lấy vải, quần áo cũ, săm cũ lót vào bên trong tăng độ bền của săm, lốp xe; bổ sung thêm 2 chiếc ghế để dựa xe trong lúc nghỉ chân và để chèn xe khi xuống dốc. Với cách làm này, ông tăng dần khối lượng lên 200-300 kg/chuyến…
Sáng kiến và thành tích chở gạo của ông Thắng được biểu dương rộng rãi trên toàn mặt trận. Kết thúc chiến dịch, Đoàn xe đạp thồ T20 Phú Thọ đã vận chuyển được 85 tấn hàng cho mặt trận, được tặng thưởng lá cờ “Nông Lâm Quốc tế".
Ông Ma Văn Thắng đã được Ban Chỉ huy chiến dịch và Ban Cung cấp mặt trận tặng thưởng hai Bằng khen, một Huân chương Chiến công hạng Ba.
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng ra chiến trường, trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Cừ, dân công tỉnh Thái Nguyên được thưởng Huân chương chiến sĩ hạng 3 vê thành tích thồ 250kg/chuyến trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Cao Văn Tỵ "kiện tướng" xe đạp thồ</p>
<p>Đoàn xe đạp thồ dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực cho mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vượt mọi khó khăn, đảm bảo thời gian vận chuyển lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng phục vụ bộ đội chiến đấu tại chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Hàng vạn chiếc xe đạp thồ chở lương thực, vũ khí vào chiến trường Điện Biên Phủ trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội chở thuốc men phục vụ bộ đội tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
Quay lại
<p>Cao Văn Tỵ "kiện tướng" xe đạp thồ</p>
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, mảnh đất Liên khu 4, chủ yếu là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, đã huy động hơn 250.000 dân công với hơn 11.000 xe đạp thồ, vận chuyển khoảng 15.000 tấn gạo, hơn 400 tấn muối, hàng trăm tấn đạn, pháo, quân trang… ra chiến trường. Góp sức nhỏ bé vào thành tích đó, dân công Cao Văn Tỵ (Đoàn dân công Thanh Hóa) đã có nhiều sáng kiến cải tiến xe đạp thồ, nâng mức chở lên 320kg/chuyến được mọi người gọi là “Kiện tướng xe thồ”.
Để tăng năng suất vận chuyển trên mỗi chuyến thồ, anh Cao Văn Tỵ đã gia cố thêm khung, vành, tay lái, nan hoa để tăng độ bền, độ chịu lực. Sự sáng tạo đó đã tăng được sức tải của xe, gấp từ 10 đến 20 lần so với người gánh. Những chiếc xe đạp thô sơ trở thành phương tiện vận tải hiệu quả ngoài sự tính toán của những chuyên gia quân sự đối phương.
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng ra chiến trường, trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Cừ, dân công tỉnh Thái Nguyên được thưởng Huân chương chiến sĩ hạng 3 vê thành tích thồ 250kg/chuyến trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ông Ma Văn Thắng và chiếc xe đạp thồ hàng cho chiến dịch</p>
<p>Đoàn xe đạp thồ dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực cho mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vượt mọi khó khăn, đảm bảo thời gian vận chuyển lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng phục vụ bộ đội chiến đấu tại chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Hàng vạn chiếc xe đạp thồ chở lương thực, vũ khí vào chiến trường Điện Biên Phủ trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội chở thuốc men phục vụ bộ đội tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
Quay lại
<p>Đoàn xe đạp thồ dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực cho mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng ra chiến trường, trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Cừ, dân công tỉnh Thái Nguyên được thưởng Huân chương chiến sĩ hạng 3 vê thành tích thồ 250kg/chuyến trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ông Ma Văn Thắng và chiếc xe đạp thồ hàng cho chiến dịch</p>
<p>Cao Văn Tỵ "kiện tướng" xe đạp thồ</p>
<p>Dân công vượt mọi khó khăn, đảm bảo thời gian vận chuyển lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng phục vụ bộ đội chiến đấu tại chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Hàng vạn chiếc xe đạp thồ chở lương thực, vũ khí vào chiến trường Điện Biên Phủ trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội chở thuốc men phục vụ bộ đội tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
Quay lại
<p>Dân công vượt mọi khó khăn, đảm bảo thời gian vận chuyển lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng ra chiến trường, trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Cừ, dân công tỉnh Thái Nguyên được thưởng Huân chương chiến sĩ hạng 3 vê thành tích thồ 250kg/chuyến trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ông Ma Văn Thắng và chiếc xe đạp thồ hàng cho chiến dịch</p>
<p>Cao Văn Tỵ "kiện tướng" xe đạp thồ</p>
<p>Đoàn xe đạp thồ dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực cho mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng phục vụ bộ đội chiến đấu tại chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Hàng vạn chiếc xe đạp thồ chở lương thực, vũ khí vào chiến trường Điện Biên Phủ trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội chở thuốc men phục vụ bộ đội tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
Quay lại
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng phục vụ bộ đội chiến đấu tại chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng ra chiến trường, trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Cừ, dân công tỉnh Thái Nguyên được thưởng Huân chương chiến sĩ hạng 3 vê thành tích thồ 250kg/chuyến trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ông Ma Văn Thắng và chiếc xe đạp thồ hàng cho chiến dịch</p>
<p>Cao Văn Tỵ "kiện tướng" xe đạp thồ</p>
<p>Đoàn xe đạp thồ dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực cho mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vượt mọi khó khăn, đảm bảo thời gian vận chuyển lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Hàng vạn chiếc xe đạp thồ chở lương thực, vũ khí vào chiến trường Điện Biên Phủ trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội chở thuốc men phục vụ bộ đội tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
Quay lại
<p>Hàng vạn chiếc xe đạp thồ chở lương thực, vũ khí vào chiến trường Điện Biên Phủ trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng ra chiến trường, trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Cừ, dân công tỉnh Thái Nguyên được thưởng Huân chương chiến sĩ hạng 3 vê thành tích thồ 250kg/chuyến trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ông Ma Văn Thắng và chiếc xe đạp thồ hàng cho chiến dịch</p>
<p>Cao Văn Tỵ "kiện tướng" xe đạp thồ</p>
<p>Đoàn xe đạp thồ dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực cho mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vượt mọi khó khăn, đảm bảo thời gian vận chuyển lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng phục vụ bộ đội chiến đấu tại chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội chở thuốc men phục vụ bộ đội tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
Quay lại
<p>Dân công và bộ đội chở thuốc men phục vụ bộ đội tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng ra chiến trường, trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Cừ, dân công tỉnh Thái Nguyên được thưởng Huân chương chiến sĩ hạng 3 vê thành tích thồ 250kg/chuyến trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ông Ma Văn Thắng và chiếc xe đạp thồ hàng cho chiến dịch</p>
<p>Cao Văn Tỵ "kiện tướng" xe đạp thồ</p>
<p>Đoàn xe đạp thồ dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực cho mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vượt mọi khó khăn, đảm bảo thời gian vận chuyển lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn dân công xe đạp thồ vận chuyển hàng phục vụ bộ đội chiến đấu tại chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Hàng vạn chiếc xe đạp thồ chở lương thực, vũ khí vào chiến trường Điện Biên Phủ trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Vận chuyển bằng đường thủy - Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
Bến phà Âu Lâu
Để chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên, thị xã Yên Bái nơi đường 13 đi qua, được Quân ủy Trung ương đặt là nơi tập kết xe pháo và hành quân lên Tây Bắc theo trục đường 13, nay là quốc lộ 37.điểm vượt sông quan trọng của trục tuyến đường này là bến phà Âu Lâu. Vào thời đó, tại bến này chỉ có 2 chiếc phà, mỗi phà chỉ chở được 2 hoặc 3 ôtô mỗi lượt. Để bảo đảm bí mật, ban ngày người ta giấu phà bằng cách làm chìm phà xuống sông, chạng vạng tối lại cho phà nổi lên. Phương pháp vận chuyển phà vô cùng thủ công, một số công nhân lái phà cùng nhau bám theo sợi dây néo hai bên bờ, còn một số khác thì thay nhau dùng sào chống, đẩy, về sau được cải tiến nên mỗi đêm thường chở được 50 chuyến. Người dân làng Vạn Lâu thạo sông nước, cũng được huy động trở thành một phân đoàn dân công thuyền nan phục vụ việc đưa dân công, bộ đội qua sông suốt cả ngày lẫn đêm. Những chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỗi chuyến cũng chở được năm bảy người hoặc 2 chiếc xe thồ cùng hàng hóa qua sông. Thuyền phục vụ chiến dịch như lá tre vượt sông. Tại bến phà này đã có trên 3 vạn bộ đội, dân công được qua lại an toàn, đã có 25 ngàn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực thực phẩm vượt sông vận chuyển vào chiến trường
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Từng đoàn thuyền bè vượt thác ghềnh chở lương thực đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Bến phà Âu Lâu
<p>Bộ đội ta vượt sông Hồng qua bến phà Âu Lâu, tiến vào giải phóng Tây Bắc, 1954</p>
<p>Dân công Khu 4 vận chuyển lương thực lên phục vụ bộ đội chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn thuyền dân công trở lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Anh Nguyễn Văn Trại, dân công người Thái thuộc đội thuyền Độc Mộc Tây Bắc có thành tích vận chuyển cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công vận tải trang bị vũ khí bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngược dòng sông Mã, từng đoàn thuyền vượt qua những ghềnh thác nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền độc mộc Tây Bắc Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Vận tải lương thực bằng thuyền lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển lương thực bằng thuyền ra mặt trận, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chở xăng dầu bằng mảng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Các phương tiện vận tải khác - Dân công chở đạn phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đèo Lũng Lô</p>
<p>Dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tập trung nghe tin tức mặt trận trong giờ nghỉ giải lao, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Tây Bắc vận chuyển lương thực bằng xe quệt lên Điện Biên, 1954</p>
<p>Đội Dân công hỏa tuyến huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chăm sóc ngựa để đảm bảo vận chuyển đạn, lương thực vào chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn ngựa thồ của đồng bào Mèo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xe quệt chở vũ khí của Cục Vận tải phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công xe quệt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tải đạn ra tiền tuyến tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Đèo Lũng Lô</p>
Đèo Lũng Lô thuộc xã Thượng Bằng La, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, đây là đoạn đường đèo có nhiều dốc cao, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu được coi là nguy hiểm nhất trên tuyến đường này. Để đảm bảo đường đèo đủ chiều rộng và độ dốc thoải cần thiết cho các loại xe Gaz 63 và GMC kéo những khẩu pháo nặng tới 2,5 tấn qua đèo an toàn.
Tại đèo này đã có gần 125.000 chiến sĩ công binh, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến tham gia bạt núi, mở đường. Nhân dân địa phương đã tự nguyện quyên góp hàng nghìn cây gỗ, hàng vạn cây tre, bương, vầu bắc cầu thông xe, vận tải quân lương vào chiến dịch. Hơn 200 ngày đêm, bộ đội công binh và dân công hỏa tuyến vừa mở đường vừa bảo vệ và vận chuyển được hàng nghìn tấn lương thực, quân trang, vũ khí đạn dược vượt đường đèo an toàn. Từ đó tuyến đường qua đèo Lũng Lô đã trở thành môt trong 2 tuyến đường đèo huyền thoại trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Con đèo được mở để xe pháo đi qua, là một kỳ tích làm thực dân Pháp bất ngờ và khiếp sợ bởi tinh thần quả cảm của quân và dân ta.
<p>Dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tập trung nghe tin tức mặt trận trong giờ nghỉ giải lao, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Tây Bắc vận chuyển lương thực bằng xe quệt lên Điện Biên, 1954</p>
<p>Đội Dân công hỏa tuyến huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chăm sóc ngựa để đảm bảo vận chuyển đạn, lương thực vào chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn ngựa thồ của đồng bào Mèo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xe quệt chở vũ khí của Cục Vận tải phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công xe quệt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tải đạn ra tiền tuyến tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tập trung nghe tin tức mặt trận trong giờ nghỉ giải lao, 1954</p>
<p>Đèo Lũng Lô</p>
<p>Đồng bào dân tộc Tây Bắc vận chuyển lương thực bằng xe quệt lên Điện Biên, 1954</p>
<p>Đội Dân công hỏa tuyến huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chăm sóc ngựa để đảm bảo vận chuyển đạn, lương thực vào chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn ngựa thồ của đồng bào Mèo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xe quệt chở vũ khí của Cục Vận tải phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công xe quệt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tải đạn ra tiền tuyến tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Đồng bào dân tộc Tây Bắc vận chuyển lương thực bằng xe quệt lên Điện Biên, 1954</p>
<p>Đèo Lũng Lô</p>
<p>Dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tập trung nghe tin tức mặt trận trong giờ nghỉ giải lao, 1954</p>
<p>Đội Dân công hỏa tuyến huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chăm sóc ngựa để đảm bảo vận chuyển đạn, lương thực vào chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn ngựa thồ của đồng bào Mèo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xe quệt chở vũ khí của Cục Vận tải phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công xe quệt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tải đạn ra tiền tuyến tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Đội Dân công hỏa tuyến huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đèo Lũng Lô</p>
<p>Dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tập trung nghe tin tức mặt trận trong giờ nghỉ giải lao, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Tây Bắc vận chuyển lương thực bằng xe quệt lên Điện Biên, 1954</p>
<p>Chăm sóc ngựa để đảm bảo vận chuyển đạn, lương thực vào chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn ngựa thồ của đồng bào Mèo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xe quệt chở vũ khí của Cục Vận tải phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công xe quệt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tải đạn ra tiền tuyến tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Chăm sóc ngựa để đảm bảo vận chuyển đạn, lương thực vào chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đèo Lũng Lô</p>
<p>Dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tập trung nghe tin tức mặt trận trong giờ nghỉ giải lao, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Tây Bắc vận chuyển lương thực bằng xe quệt lên Điện Biên, 1954</p>
<p>Đội Dân công hỏa tuyến huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn ngựa thồ của đồng bào Mèo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xe quệt chở vũ khí của Cục Vận tải phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công xe quệt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tải đạn ra tiền tuyến tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Từng đoàn ngựa thồ của đồng bào Mèo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đèo Lũng Lô</p>
<p>Dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tập trung nghe tin tức mặt trận trong giờ nghỉ giải lao, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Tây Bắc vận chuyển lương thực bằng xe quệt lên Điện Biên, 1954</p>
<p>Đội Dân công hỏa tuyến huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chăm sóc ngựa để đảm bảo vận chuyển đạn, lương thực vào chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xe quệt chở vũ khí của Cục Vận tải phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công xe quệt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tải đạn ra tiền tuyến tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Xe quệt chở vũ khí của Cục Vận tải phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đèo Lũng Lô</p>
<p>Dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tập trung nghe tin tức mặt trận trong giờ nghỉ giải lao, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Tây Bắc vận chuyển lương thực bằng xe quệt lên Điện Biên, 1954</p>
<p>Đội Dân công hỏa tuyến huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chăm sóc ngựa để đảm bảo vận chuyển đạn, lương thực vào chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn ngựa thồ của đồng bào Mèo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công xe quệt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tải đạn ra tiền tuyến tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Dân công xe quệt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đèo Lũng Lô</p>
<p>Dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tập trung nghe tin tức mặt trận trong giờ nghỉ giải lao, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Tây Bắc vận chuyển lương thực bằng xe quệt lên Điện Biên, 1954</p>
<p>Đội Dân công hỏa tuyến huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chăm sóc ngựa để đảm bảo vận chuyển đạn, lương thực vào chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn ngựa thồ của đồng bào Mèo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xe quệt chở vũ khí của Cục Vận tải phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tải đạn ra tiền tuyến tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Dân công tải đạn ra tiền tuyến tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đèo Lũng Lô</p>
<p>Dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ tập trung nghe tin tức mặt trận trong giờ nghỉ giải lao, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Tây Bắc vận chuyển lương thực bằng xe quệt lên Điện Biên, 1954</p>
<p>Đội Dân công hỏa tuyến huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chăm sóc ngựa để đảm bảo vận chuyển đạn, lương thực vào chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn ngựa thồ của đồng bào Mèo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xe quệt chở vũ khí của Cục Vận tải phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công xe quệt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lính Pháp tại Điện Biên Phủ - Trung tá Piroth phụ trách pháo binh Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Những chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quang cảnh khu trung tâm Mường Thanh sau khi được giải phóng, 1954</p>
<p>Quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Đoàn tù binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Đờ Cátơri và toàn bộ Bộ chỉ huy bị bắt sống, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng ngoại giao Pháp Biđôn đề nghị tướng Đalet của Mỹ viện trợ cho Pháp hòng cứu vãn nguy cơ của chúng bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ</p>
<p>Tình cảnh khốn quẩn của lính Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay Pháp thả dù tiếp tế cho quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, 4/1954</p>
<p>Pháo 155ly của quân Pháp bắn vào giao thông hào của ta đang khép chặt vòng vây trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tốp máy bay quân đội Pháp đã sử dụng để bắn phá, ngăn chặn con đường vận chuyển của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Arrowman Ches đi bắn phá các ngả đường của ta lên Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Quân Pháp thường xuyên cho máy bay lượn thám thính xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công vận tải - Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói chuyện với dân công ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
Quay lại
<p>Dân công đan bồ, sọt phục vụ trong kháng chiến chống Pháp, 1953 -1954</p>
<p>Đồng bào dân tộc Thái huyện Văn Chấn gánh gạo tiếp tế cho bộ đội trong chiến dịch, 1954</p>
<p>Anh Lương Văn Soi dân công tỉnh Yên Bái vác trên vai hòm vũ khí nặng 80 kg phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nhân dân chuẩn bị trâu, bò cung cấp cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công may vá quần áo cho bộ đội ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Phụ nữ dân tộc Thái, Tây Bắc chuẩn bị gạo gửi ra chiến trường Điện Biên, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 xay lúa phục vụ chiến dịch Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công chuyển gạo vào kho để cung cấp cho các đơn vị bộ đội trong Đông Xuân, 1953-1954</p>
<p>Dân công miền núi tải lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 vượt suối sâu tiếp tế phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Từng đoàn dân công ngụy trang gánh gạo ra tiền tuyến, 1954</p>
<p>Đồng bào Xá đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào Mèo trên đỉnh núi cao cũng hăng hái xuống núi đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công và bộ đội khiêng bệ xe máy và phụ tùng vượt hàng trăm ngàn ki lô mét đường đèo suối để lắp xe ô tô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón đoàn dân công mới lên công trường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>"Quyết chiến quyết thắng" - Bộ Tổng Tư lệnh họp bàn kế hoạch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
Quay lại
<p>Bản đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ, 13/3-7/5/1954</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch đã cắm trên nóc hầm Tướng Đờ Cátơri trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 7/5/1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu gỗ tiến vào tổng công kích khu trung tâm ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào tổng công kích khu trung tâm sở chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ lúc 15h30', 7/5/1954</p>
<p>Ngày 6/5/1954 quả bộc phá 1 tấn nổ trên mặt trận Điện Biên Phủ</p>
<p>Dân công Tây Bắc và nhân dân địa phương thăm hỏi và tặng quà cho thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công mang cơm ra chiến hào phục vụ bộ đội chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến chăm sóc thương binh ngoài mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chuyển thương binh từ mặt trận Điện Biên Phủ, qua đèo Lũng Lô về Phú Thọ, 1954</p>
<p>Chăm sóc thương binh ở trạm chuyển thương Ba Khe, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đón thương binh qua đò Âu Lâu ở chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công chuẩn bị cáng có mui để che mưa, nắng cho thương binh ở mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh qua sông bằng thuyền ở bến Âu Lâu, Yên Bái, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công vận chuyển thương binh từ Điện Biên Phủ về qua cầu Yên Bái, 1954</p>
<p>Đồng bào thiểu số Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La phục vụ thương bệnh binh ở đội điều trị I, chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chiếc máy bay B24, chiếc thứ 50 bị phòng không ta bắn rơi ở gần Bản Kéo, 20/4/1954</p>
<p>Máy bay B26 Mỹ viện trợ cho Pháp đã bị trúng đạn, bốc cháy ở sân bay Mường Thanh, 3/1954</p>
<p>Các chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai mở đường cho các chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt địch tại cứ điểm 206</p>
<p>Đêm 30/3/1954, mở màn đợt tấn công thứ 2, quân ta xông lên tiêu diệt đồi C, phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh</p>
<p>Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta được cắm trên cứ điểm Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ, 3/1954</p>
<p>17h ngày 13/3/1954 trọng pháo của ta đã bắn những quả đạn đầu tiên vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
<p>Các chiến sỹ Sư đoàn 312 nhồi thuốc vào bộc phá ống và hộp, chuẩn bị đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, 13/3/1954</p>
<p>Đại tướng Tổng Tư lệnh trao nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp trên sa bàn chiến trường Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh mở đường vào chiến trường Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
Quay lại
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
Quay lại
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
Quay lại
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
Quay lại
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
Quay lại
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
Quay lại
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
Quay lại
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
Quay lại
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
Quay lại
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
Quay lại
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
Quay lại
<p>Nữ dân công Tây Bắc hăng hái mở đường từ huyện Tuần Giáo vào Điện Biên</p>
<p>Dân công tham gia sửa đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công sửa đường Đèo Lũng Lô đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh bạt núi mở đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, 1953</p>
<p>Dân công miền núi làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia mở đường Tuần Giáo lên Điện Biên chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công Liên khu 3 san đá rải đường, phục vụ xe vận chuyển hàng vào Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công sửa đường để chuyển thương binh về hậu phương, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công và bộ đội công binh đốt đuốc mở đường kịp thời vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến đấu ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công hỏa tuyến và bộ đội công binh làm đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Chủ trương của Việt Nam</p>
Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp chuẩn bị cho "cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân năm 1953-1954" tại Khuôn Tát, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
<p>Xưởng Bản đồ kịp thời biên vẽ bản đồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh phá bom nổ chậm trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội pháo phòng không hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Các đơn vị nghe cán bộ phổ biến kế hoạch hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ chỉ huy chiến dịch Điên Biên Phủ bàn kế hoạch, phương án tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về Liên khu 4 tổ chức huy động nhân lực, vật lực tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
Quay lại
<p>Xưởng Bản đồ kịp thời biên vẽ bản đồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh phá bom nổ chậm trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội pháo phòng không hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Các đơn vị nghe cán bộ phổ biến kế hoạch hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ chỉ huy chiến dịch Điên Biên Phủ bàn kế hoạch, phương án tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về Liên khu 4 tổ chức huy động nhân lực, vật lực tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
Quay lại
<p>Bộ đội kéo pháo vào tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xưởng Bản đồ kịp thời biên vẽ bản đồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh phá bom nổ chậm trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội pháo phòng không hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Các đơn vị nghe cán bộ phổ biến kế hoạch hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ chỉ huy chiến dịch Điên Biên Phủ bàn kế hoạch, phương án tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về Liên khu 4 tổ chức huy động nhân lực, vật lực tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
Quay lại
<p>Bộ đội công binh phá bom nổ chậm trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xưởng Bản đồ kịp thời biên vẽ bản đồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội pháo phòng không hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Các đơn vị nghe cán bộ phổ biến kế hoạch hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ chỉ huy chiến dịch Điên Biên Phủ bàn kế hoạch, phương án tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về Liên khu 4 tổ chức huy động nhân lực, vật lực tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
Quay lại
<p>Bộ đội pháo phòng không hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xưởng Bản đồ kịp thời biên vẽ bản đồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh phá bom nổ chậm trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Các đơn vị nghe cán bộ phổ biến kế hoạch hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ chỉ huy chiến dịch Điên Biên Phủ bàn kế hoạch, phương án tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về Liên khu 4 tổ chức huy động nhân lực, vật lực tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
Quay lại
<p>Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xưởng Bản đồ kịp thời biên vẽ bản đồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh phá bom nổ chậm trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội pháo phòng không hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Các đơn vị nghe cán bộ phổ biến kế hoạch hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ chỉ huy chiến dịch Điên Biên Phủ bàn kế hoạch, phương án tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về Liên khu 4 tổ chức huy động nhân lực, vật lực tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
Quay lại
<p>Các đơn vị nghe cán bộ phổ biến kế hoạch hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xưởng Bản đồ kịp thời biên vẽ bản đồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh phá bom nổ chậm trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội pháo phòng không hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ chỉ huy chiến dịch Điên Biên Phủ bàn kế hoạch, phương án tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về Liên khu 4 tổ chức huy động nhân lực, vật lực tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
Quay lại
<p>Bộ chỉ huy chiến dịch Điên Biên Phủ bàn kế hoạch, phương án tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Xưởng Bản đồ kịp thời biên vẽ bản đồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh phá bom nổ chậm trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội pháo phòng không hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Các đơn vị nghe cán bộ phổ biến kế hoạch hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về Liên khu 4 tổ chức huy động nhân lực, vật lực tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
Quay lại
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về Liên khu 4 tổ chức huy động nhân lực, vật lực tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
<p>Xưởng Bản đồ kịp thời biên vẽ bản đồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh phá bom nổ chậm trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội pháo phòng không hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Các đơn vị nghe cán bộ phổ biến kế hoạch hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ chỉ huy chiến dịch Điên Biên Phủ bàn kế hoạch, phương án tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ Tổng Tư lệnh họp bàn kế hoạch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Hiện vật của dân công hỏa tuyến phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ</p>
"Lốp ô tô" - Lái xe Tổng cục Cung cấp có sáng kiến dùng đinh vít vá lốp ôtô bị thủng tiếp tục chở hàng phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Nạng chống xe đạp thồ</p>
<p>Xe đạp thồ</p>
<p>Sọt</p>
<p>Dậu đựng gạo</p>
Quay lại
<p>Nạng chống xe đạp thồ</p>
Dân công dùng chống đỡ xe đạp sử dụng vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Quay lại
<p>Xe đạp thồ</p>
Anh Ma Văn Thắng thôn Thanh Lâu, xã Thanh Minh, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ sử dụng vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Quay lại
<p>Sọt</p>
Dân công Hà Ngọc Đãi, xã Đông Phú, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ dùng vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Quay lại
<p>Dậu đựng gạo</p>
Dân công Nguyễn Thị Quí, xã Chí Tiên, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ dùng đựng gạo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Hiện vật khi làm đường, kéo pháo</p>
"Đoạn gỗ" - Bộ đội dùng buộc dây chão để ghìm pháo khi kéo pháo lên dốc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Cuốc chim</p>
<p>Xẻng</p>
<p>Choòng phá đá</p>
<p>Dao Rựa</p>
<p>Ống nhòm</p>
<p>Guốc chèn pháo</p>
Dây chão
Quay lại
<p>Cuốc chim</p>
Chiến sĩ Đại đoàn 308 sử dụng mở đường kéo pháo vào trận địa trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Xẻng</p>
<p>Choòng phá đá</p>
<p>Dao Rựa</p>
<p>Ống nhòm</p>
<p>Guốc chèn pháo</p>
Dây chão
Quay lại
<p>Xẻng</p>
Công binh Trung đoàn 151 dùng mở đường kéo pháo vào trận địa trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Cuốc chim</p>
<p>Choòng phá đá</p>
<p>Dao Rựa</p>
<p>Ống nhòm</p>
<p>Guốc chèn pháo</p>
Dây chão
Quay lại
<p>Choòng phá đá</p>
Trung đoàn 98, Đại đoàn 316 sử dụng phá đá tại khu vực Bạn Tọ mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1953 - 1954
<p>Cuốc chim</p>
<p>Xẻng</p>
<p>Dao Rựa</p>
<p>Ống nhòm</p>
<p>Guốc chèn pháo</p>
Dây chão
Quay lại
<p>Dao Rựa</p>
Dân công sử dụng chặt tre, gỗ làm cầu, đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Cuốc chim</p>
<p>Xẻng</p>
<p>Choòng phá đá</p>
<p>Ống nhòm</p>
<p>Guốc chèn pháo</p>
Dây chão
Quay lại
<p>Ống nhòm</p>
Đồng chí Phạm Ngọc Mậu, Chính uỷ Đại đoàn 351 sử dụng quan sát trận địa Điện Biên Phủ để chỉ đạo bộ đội kéo pháo, 1954
<p>Cuốc chim</p>
<p>Xẻng</p>
<p>Choòng phá đá</p>
<p>Dao Rựa</p>
<p>Guốc chèn pháo</p>
Dây chão
Quay lại
<p>Guốc chèn pháo</p>
Pháo thủ Trung đoàn 45, Đại đoàn 351 sử dụng chèn bánh pháo khi đưa pháovào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Cuốc chim</p>
<p>Xẻng</p>
<p>Choòng phá đá</p>
<p>Dao Rựa</p>
<p>Ống nhòm</p>
Dây chão
Quay lại
Dây chão
Đại đội 804, Trung đoàn 45, Đại đoàn 351 dùng kéo pháo vào trận địa trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Cuốc chim</p>
<p>Xẻng</p>
<p>Choòng phá đá</p>
<p>Dao Rựa</p>
<p>Ống nhòm</p>
<p>Guốc chèn pháo</p>
<p>Chuẩn bị chiến dịch</p>
Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
Tô Vĩnh Diện
(1924-1954)
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (truy tặng 1956)
Quê quán: xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa
Nhập ngũ: 1949
Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam: 1949
Khi hi sinh là khẩu đội trưởng pháo phòng không, Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3-7/5/1954), khi kéo pháo ra, đến đoạn xuống Dốc Chuối, Tô Vĩnh Diện và pháo thủ Ty xung phong cầm càng lái pháo. Khi dây tời chính bị đứt, pháo lao nhanh và khó điều khiển, pháo thủ Ty bị càng pháo đánh bật ra, Tô Vĩnh Diện vẫn bám càng, điều khiển hướng lao của pháo, bất chấp nguy hiểm lấy thân mình đẩy càng vào vách núi cho pháo dừng lại, Tô Vĩnh Diện hi sinh.
Huân chương: Quân công hạng nhì, Chiến công hạng nhất.
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 thu được của quân Pháp trong Chiến dịch Tây Bắc,1952
Đại đội 806, Trung đoàn 45 sử dụng bắn vào cứ điểm Him Lam, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 13/3/1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Đèn bão</p>
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh, sử dụng tại Sở chỉ huy Mường Phăng, xã Mường Phăng, thành phố Điện Biên, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Hiện vật của thực dân Pháp</p>
Thư Mắc - Đô -Nan, Cao ủy Anh và La- Ma-peo, tướng Pháp phụ trách trường Cao đẳng quân sự động viên Đờ-cát-tơ-ri ở Điện Biên Phủ ngày 25/1/1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Súng phun lửa</p>
Mỹ viện trợ cho Pháp, Tiểu đoàn 215, Trung đoàn 98, Đại đoàn 316 thu được ở đồi C2 phía Đông Mường Thanh, trong chiến dịch Điên Biên Phủ tháng 5/1954
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Mìn đe - 05</p>
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ năm 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Mìn đe - 04</p>
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ năm 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Mìn đe - 03</p>
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ năm 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Mìn đe - 02</p>
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ năm 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Mìn đe - 01</p>
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ năm 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
Mìn nhựa
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ, 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Súng đại liên mas</p>
Trung đoàn 36, Đại đoàn 308 thu của quân Pháp ở cứ điểm 206 trong chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 23/4/1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Thông tri</p>
Đại tá Đờ-cát-tơ-ri, Chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp, phổ biến chung cho các đơn vị về việc bảo đảm phòng ngự, cố thủ Điện Biên Phủ ngày 14/12/1953
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Sở Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ở hang Huổi He, xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, 27/1/1954</p>
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh của Chiến dịch phổ biến phương châm "đánh chắc tiến chắc" tại Sở Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ở hang Huổi He, xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, 27/1/1954
Bộ chỉ huy mặt trận được sự chỉ đạo của Trung ương căn cứ vào tình hình thực tiễn đã kịp thời thay đổi kế hoạch đánh Điện Biên Phủ trong 3 đêm 2 ngày bằng một kế hoạch mới theo phương châm "đánh chắc tiến chắc", nhằm phát huy tối đa ưu thế của ta hạn chế tối đa sức mạnh của địch.
Quay lại
<p>Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013)</p>
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng 1946 - 8/1947; 8/1948 - 1980
Năm sinh: 1911
Quê quán: xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình
Tham gia cách mạng: 1925
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1940
Cấp bậc cao nhất: Đại tướng (1948)
Chức vụ cao nhất: Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam (1946-1975), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) (1946-1947; 1948-1980)
Quá trình hoạt động cách mạng:
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, nhà chỉ huy và nhà lí luận quân sự xuất sắc của Việt Nam. Tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm: năm 1925 tham gia lãnh đạo phong trào học sinh Huế. Năm 1929 tham gia cải tổ Tân Việt Cách mạng Đảng thành Đông Duơng Cộng sản Liên đoàn. Năm 1930, bị Thực dân Pháp bắt giam. Từ năm 1936 đến 1939, tham gia Phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, tham gia sáng lập Báo “Lao động”, “Tiếng nói chúng ta”; biên tập Báo “Tin tức”, “Dân chúng”. Chủ tịch Uỷ ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương Đại hội. Năm 1940, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau tháng 5/1941, xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức Việt Minh ở Cao Bằng; tham gia khởi nghĩa vũ trang ở Căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng. Năm 1942, phụ trách Ban Xung phong Nam tiến, dùng hoạt động tuyên truyền vũ trang mở đường liên lạc giữa miền núi với đồng bằng Bắc Bộ. Tháng 12/1944, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân; chỉ huy đội đánh thắng hai trận đầu ở Phai Khắt (25/12/1944) và Nà Ngần (26/12/1944). Ngày 4/8/1945 đồng chí là Ủy viên Uỷ ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ, Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Thống nhất (Việt Nam Giải phóng quân). Đồng chí đuợc Hội nghị Toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương cử vào Ban Chấp hành Trung ương và Ủy viên thường vụ Ban Chấp hành, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc, ủy viên Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Lâm thời, Chủ tịch Quân sự Uỷ viên Hội trong Chính phủ Liên hiệp, Phó trưởng đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán với Pháp tại Hội nghị trù bị Đà Lạt. Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá II - VI; Uỷ viên Bộ Chính trị các khoá II - IV. Bí thư Tổng Quân uỷ, sau này là Quân uỷ Trung ương (1946 - 77). Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1946 - 1947), Đại tướng (1948), Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân Việt Nam, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam (đến 1975); uỷ viên Hội đồng Quốc phòng (1948). Trong Kháng chiến chống Pháp, trực tiếp chỉ huy các chiến dịch lớn, đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). Trong Kháng chiến chống Mĩ, cùng Bộ Chính trị, chỉ đạo nhiều chiến dịch lớn, đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh, chỉ đạo chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng Không quân và Hải quân của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1955 - 1980). Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1981 - 1991). Đại biểu Quốc hội các khoá I - VII.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nhiều tác phẩm quân sự có giá trị nghiên cứu cao như: "Khu giải phóng" (1946), "Đội quân giải phóng" (1947), "Chiến tranh giải phóng và quân đội nhân dân, ba giai đoạn chiến lược" (1950), "Điện Biên Phủ" (1964), "Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng" (1970), "Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân" (1972), "Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc" (1979), "Tư tưởng Hồ Chí Minh và Con đường cách mạng Việt Nam" (2000)…
Phần thưởng cao quí
Với những đóng góp cực kỳ to lớn cho cách mạng Việt Nam, Đại tướng đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Sao vàng, hai Huân chương Hồ Chí Minh, hai Huân chương Quân công hạng nhất, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng, và nhiều huân chương, phần thưởng cao quý khác…
<p>Các trận Him Lam và Độc lập</p>
Kế hoạch tác chiến số 1 Bộ Tư lệnh Đại đoàn 312 ra ngày 5/3/1954 và bổ sung ngày 11/3/1954 về tiêu diệt quân Pháp ở cụm cứ điểm Him Lam tháng 3/1954.
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
Đồng chí Vũ Đình Công, tổ quân báo Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 sử dụng cắt lớp hàng rào đầu tiên trong trận tấn công cứ điểm đồi Độc Lập, 14/3/1954
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
Ban chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316 sử dụng truyền lệnh tấn công cứ điểm Độc Lập đêm, 14/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
Chiến sĩ Trung đoàn 165, Đại đoàn 312 sử dụng đánh mở cửa tấn công cứ điểm Độc Lập, 14/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Đạn phóng</p>
Trung đoàn 165, Đại đoàn 312 đã sử dụng chiến đấu tấn công cứ điểm Độc lập, 14/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Lựu đạn</p>
Đại đội 5,Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 sử dụng chiến đấu ở cứ điểm Độc Lập, 14/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
Đại đoàn 312 sử dụng để nghiên cứu xây dựng các mũi tiến công tiêu diệt quân Pháp tại cụm cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo, 14/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Quyết tâm thư</p>
Đồng chí Hà Vân Khanh, chiến sĩ Trung đoàn 141, Đại đoàn 312 gửi Hồ Chủ tịch trước giờ nổ súng tấn công cứ điểm Him Lam, 13/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967)
Tên thật: Nguyễn Vịnh
Sinh ngày: 01/01/1914
Quê quán: Thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Cha: Nguyễn Hán
Mẹ: Trần Thị Thiển
Ông là con thứ 6 trong gia đình có 11 người con (tính cả anh em cùng cha khác mẹ). Ông sinh trưởng trong một gia đình trung nông, thuở nhỏ cũng được học hành. Năm 14 tuổi, cha qua đời, gia đình nghèo, ông bỏ học, đi làm tá điền kiếm sống và nuôi gia đình.
Đại tướng là một tướng lĩnh quân đội và là tướng chính trị đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng công tác ở nhiều lĩnh vực chính trị khác nhau và đều có khả năng phát triển lĩnh vực đó nên còn được gọi là "vị tướng phong trào". Ông giữ chức vụ Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Quân ủy Miền kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam trong chiến tranh Việt Nam, trực tiếp lãnh đạo chiến trường Miền Nam Việt Nam. Ông cũng là người phát triển phương châm chiến lược "Nắm thắt lưng địch mà đánh" cho toàn miền Nam của Quân Giải phóng miền Nam.
Quá trình công tác:
Năm 1943, ông tham gia cách mạng trong phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, lần lượt giữ các chức vụ: Bí thư chi bộ, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên.
Từ năm 1938 đến năm 1943, ông nhiều lần bị Pháp bắt giam ở nhà lao Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Đến khi Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) thì ông được ra tù. Sau khi ra tù và trở lại hoạt động, ông được bầu làm Bí thư Khu ủy khu IV và được cử đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào (tháng 8/1945).
Trong Đại hội Đảng ở Tân Trào, ông được đặt bí danh là Nguyễn Chí Thanh, được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ có nhiệm vụ theo dõi và tổ chức giành chính quyền tại Trung Kỳ trong Cách mạng tháng 8.
Từ năm 1946 đến 1948, ông làm Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên, Bí thư Phân Khu uỷ Bình - Trị - Thiên.
Từ năm 1948 đến 1950, ông làm Bí thư Liên khu ủy IV. Cuối năm 1950, ông được bổ nhiệm giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), ông được cử vào Bộ Chính trị.
Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), Nguyễn Chí Thanh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được cử vào Bộ Chính trị và Ban bí thư.
Năm 1961, được giao nhiệm vụ Phụ trách Ban Nông nghiệp của Đảng. Trong Chiến tranh Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng điều ông trở lại quân đội. Nguyễn Chí Thanh còn là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1961, ông liên tục phát động các phong trào thi đua trong các hợp tác xã, giúp ổn định tình hình phát triển trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của miền Bắc
Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam. Thời gian này ông lấy bí danh là Sáu Vi. Khi viết báo, ông thường lấy bút danh là Trường Sơn.
Tại chiến trường, ông là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phòng miền Nam với phương châm "Nắm thắt lưng địch mà đánh", lối đánh này dùng phương châm cơ động áp sát nhằm hạn chế ưu thế hỏa lực của quân Mỹ.
Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 1967 tại Hà Nội do một cơn nhồi máu cơ tim khi ra Hà Nội để báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình miền Nam. Trước khi qua đời, ông cũng đã được trao huy hiệu 30 năm tuổi Đảng Ngày nay tại Việt Nam đang có những con phố và ngôi trường mang tên ông. Tại thành phố Huế có một nhà tưởng niệm ông. Sau khi mất, ông được mai táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.
Đại tướng Hoàng Văn Thái
(1915-1986)
Tên khai sinh:
Hoàng Văn Xiêm
Sinh ngày: 01/05/1915
Quê quán: Làng An Khang, tổng Đại Hoàng (nay thuộc thị trấn Tiền Hải), huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Tham gia cách mạng: 1936
Nhập ngũ: 1944
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Từ tháng 05/1938
Cấp bậc: Đại tướng (1980)
Anh hùng Cù Chính Lan
(1930-1951)
Quê quán: Làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An
Cha: Cù Khắc Nhượng
Mẹ: Hồ Thị Hạ
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 31/5/1952
Anh hùng Nguyễn Quốc Trị
(1921-1967)
Quê quán: Xã Đa Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
Nhập ngũ: 1945
Thượng tá: 1966
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1946
Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1952
Anh hùng La Văn Cầu
(1932)
Tên khai sinh: Sầm Phúc Hướng
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
Cấp bậc: Đại tá
Khen thưởng: Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất
Đại tướng Hoàng Văn Thái
(1915-1986)
Tên khai sinh:
Hoàng Văn Xiêm
Sinh ngày: 01/05/1915
Quê quán: Làng An Khang, tổng Đại Hoàng (nay thuộc thị trấn Tiền Hải), huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Tham gia cách mạng: 1936
Nhập ngũ: 1944
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Từ tháng 05/1938
Cấp bậc: Đại tướng (1980)
Đại tướng Hoàng Văn Thái là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong sự hình thành và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam; người có công lao lớn trong cuộc chiến chống thực dân Pháp và ảnh hưởng lớn trong cuộc chiến chống đế quốc Mĩ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ông là Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, góp công trong nhiều chiến dịch quan trọng như Chiến dịch Biên giới thu đông (1950), Trận Điện Biên Phủ (1954), Chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch năm 1972, Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ông cũng là nhân vật chính trị cao cấp của Việt Nam, từng giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VII, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III, IV, V.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967)
Tên thật: Nguyễn Vịnh
Sinh ngày: 01/01/1914
Quê quán: Thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Cha: Nguyễn Hán
Mẹ: Trần Thị Thiển
Anh hùng Cù Chính Lan
(1930-1951)
Quê quán: Làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An
Cha: Cù Khắc Nhượng
Mẹ: Hồ Thị Hạ
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 31/5/1952
Anh hùng Nguyễn Quốc Trị
(1921-1967)
Quê quán: Xã Đa Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
Nhập ngũ: 1945
Thượng tá: 1966
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1946
Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1952
Anh hùng La Văn Cầu
(1932)
Tên khai sinh: Sầm Phúc Hướng
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
Cấp bậc: Đại tá
Khen thưởng: Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất
Anh hùng Cù Chính Lan
(1930-1951)
Quê quán: Làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An
Cha: Cù Khắc Nhượng
Mẹ: Hồ Thị Hạ
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 31/5/1952
Anh hùng Cù Chính Lan là một trong 7 cá nhân đầu tiên được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân của Việt Nam.
Ngày 13/12/1951, trong trận tấn công căn cứ điểm Giang Mỗ, anh đã một mình đuổi xe tăng Pháp, nhảy lên thành xe, ném lựu đạn vào buồng lái để tiêu diệt xe.
Anh sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, là con thứ ba và là con út. Mẹ mất khi anh mới 4 tuổi. Sau đó cha anh tục huyền với bà Hồ Thị Hoe và sinh hạ tiếp 4 người con nữa. Gia đình nghèo, từ nhỏ anh phải lao động vất vả để giúp đỡ sinh kế cho gia đình. Thuở nhỏ, anh còn có tên là "cu Nâu".
Tại Chiến dịch Hòa Bình, trong một trận phục kích trên đường số 6 tại Giang Mỗ (Hòa Bình) ngày 7/12/1951, do bị lộ trận địa, quân Pháp phản kích dữ dội. Anh là người đi sau cùng, dùng súng máy bắn kiềm chế đối phương cho đơn vị rút, rồi quay lại tìm người bị thương, đưa được ba đồng đội trở về đơn vị an toàn.
Ngày 13/12/1951, đơn vị lại bố trí phục kích quân Pháp lần thứ 2 tại Giang Mỗ. Bất ngờ có một xe tăng Pháp tiếp viện, bắn dữ dội vào đội hình, chặn đường rút và làm nhiều lính Việt Minh thương vong. Cù Chính Lan xông lên, nhảy lên xe tăng kề tiểu liên vào khe hở trên tháp xe bóp cò, nhưng không may tiểu liên bị hóc, chiếc xe vẫn vừa chạy vừa bắn. Cù Chính Lan hô anh em tập trung lưu đạn đến cho mình rồi lại nhanh nhẹn nhảy lên xe, giật nắp quăng lựu đạn vào trong xe, lính tăng Pháp nhặt lựu đạn ném ra và hốt hoảng lái xe tăng chuyển hướng. Thời cơ diệt xe tăng ngay trước mắt, Cù Chính Lan dũng cảm mở chốt lựu đạn, chờ cho khói thuốc xì ra được một vài giây rồi mới ném vào buồng lái, lựu đạn nổ diệt hết lính tăng trong xe, chiếc xe dừng lại tại chỗ, tạo điều kiện cho đồng đội hoàn thành nhiệm vụ. Do thành tích này, anh được tuyên dương trước Đại hội Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc.
Ngày 29/12/1951, đơn vị anh được lệnh đánh đồn Cô Tô (Hòa Bình). Tiểu đội anh được giao nhiệm vụ mở cửa hàng rào cho đại quân tấn công. Dù bị thương nặng 3 lần, anh vẫn cố gắng tham gia chiến đấu cho đến khi tử thương do mất máu.
Trong Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tháng 5/1952, anh được Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh truy tặng Huân chương Quân công hạng hai, Huân chương Kháng chiến hạng nhất.
Thông tin khác
Áo trấn thủ Anh hùng Cù Chính Lan, tiểu đội trưởng, đại đội 12, tiểu đoàn 353, trung đoàn 66, đại đoàn 304, mặc trong trận tiêu diệt xe tăng địch ở Giang Mỗ, xã Bình Thanh, tỉnh Hoà Bình, 12/1951
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967)
Tên thật: Nguyễn Vịnh
Sinh ngày: 01/01/1914
Quê quán: Thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Cha: Nguyễn Hán
Mẹ: Trần Thị Thiển
Đại tướng Hoàng Văn Thái
(1915-1986)
Tên khai sinh:
Hoàng Văn Xiêm
Sinh ngày: 01/05/1915
Quê quán: Làng An Khang, tổng Đại Hoàng (nay thuộc thị trấn Tiền Hải), huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Tham gia cách mạng: 1936
Nhập ngũ: 1944
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Từ tháng 05/1938
Cấp bậc: Đại tướng (1980)
Anh hùng Nguyễn Quốc Trị
(1921-1967)
Quê quán: Xã Đa Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
Nhập ngũ: 1945
Thượng tá: 1966
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1946
Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1952
Anh hùng La Văn Cầu
(1932)
Tên khai sinh: Sầm Phúc Hướng
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
Cấp bậc: Đại tá
Khen thưởng: Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất
Quay lại
Áo trấn thủ Anh hùng Cù Chính Lan, tiểu đội trưởng, đại đội 12, tiểu đoàn 353, trung đoàn 66, đại đoàn 304, mặc trong trận tiêu diệt xe tăng địch ở Giang Mỗ, xã Bình Thanh, tỉnh Hoà Bình, 12/1951
Anh hùng Nguyễn Quốc Trị
(1921-1967)
Quê quán: Xã Đa Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
Nhập ngũ: 1945
Thượng tá: 1966
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1946
Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1952
Trưởng thành từ chiến sĩ đến trung đoàn trưởng, tham gia nhiều chiến dịch lớn, diệt gần 100 địch.
Năm 1954, đồng chí là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ Đô vào tiếp quản Hà Nội. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân 1952.
Khi tuyên dương Anh hùng là đại đội trưởng thuộc Trung đoàn 102, Đại đoàn 308.
Trước cách mạng tháng Tám (1945) vào đội tự vệ tiền phong chống Nhật, cùng đồng đội diệt 10 lính Nhật (Nguyễn Quốc Trị diệt 2), đốt cháy 5 xe quân sự. Trong kháng chiến chống Pháp, 1945-1954 trưởng thành từ chiến sĩ đến trung đoàn trưởng, tham gia nhiều chiến dịch lớn, diệt gần 100 địch (phần lớn là lính Âu - Phi).
Nguyễn Quốc Trị giàu kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu công kiên và vận động, cùng đồng đội sáng tạo nhiều cách đánh: dẫn đơn vị chạy băng rừng theo địa bàn để chặn đánh quân Lơ Pagiơ và dẫn đầu tổ trung liên xung phong đánh áp đảo địch; chỉ huy trung đội đánh địch từ trên nóc nhà (trận Thằn Lằn, 12/1950); kết hợp kì tập với đòn tâm lí (trận Gối Hạc, 1951). Năm 1954 trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ Đô vào tiếp quản Hà Nội.
Huân chương: Quân công hạng ba, Chiến công hạng nhất, Kháng chiến hạng nhất.
Thông tin khác
<p>Sổ ghi chép</p>
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967)
Tên thật: Nguyễn Vịnh
Sinh ngày: 01/01/1914
Quê quán: Thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Cha: Nguyễn Hán
Mẹ: Trần Thị Thiển
Đại tướng Hoàng Văn Thái
(1915-1986)
Tên khai sinh:
Hoàng Văn Xiêm
Sinh ngày: 01/05/1915
Quê quán: Làng An Khang, tổng Đại Hoàng (nay thuộc thị trấn Tiền Hải), huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Tham gia cách mạng: 1936
Nhập ngũ: 1944
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Từ tháng 05/1938
Cấp bậc: Đại tướng (1980)
Anh hùng Cù Chính Lan
(1930-1951)
Quê quán: Làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An
Cha: Cù Khắc Nhượng
Mẹ: Hồ Thị Hạ
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 31/5/1952
Anh hùng La Văn Cầu
(1932)
Tên khai sinh: Sầm Phúc Hướng
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
Cấp bậc: Đại tá
Khen thưởng: Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất
Quay lại
<p>Sổ ghi chép</p>
Nguyễn Quốc Trị sử dụng ghi chép trong thời gian chiến đấu ở cứ điểm 206, 5/1954
Anh hùng La Văn Cầu
(1932)
Tên khai sinh: Sầm Phúc Hướng
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
Cấp bậc: Đại tá
Khen thưởng: Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất
Quá trình công tác:
Năm 1948, La Văn Cầu gia nhập Đại đội 671, một đơn vị địa phương Cao Bằng của quân đội Việt Minh (khi đó gọi là Quân đội Quốc gia Việt Nam, từ năm 1950 gọi là Quân đội nhân dân Việt Nam). La Văn Cầu được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1950.
Trong chiến tranh Đông Dương, từ năm 1948 -1952, La Văn Cầu đã tham gia chiến đấu 29 trận. Trận phục kích trên đường Bông Lau - Lũng Phầy ở Cao Bằng năm 1949, ông đã xung phong và một mình bắn chết lính Pháp trên xe tăng rồi nhảy lên xe đối phương dùng súng trên xe diệt thêm 10 lính Pháp nữa.
Trong trận Đông Khê thuộc Chiến dịch Biên giới năm 1950, La Văn Cầu là chỉ huy tổ bộc phá hàng rào để đơn vị phía sau tiến công đồn. Ông Cầu bị trúng đạn dập nát một phần cánh tay phải. La Văn Cầu đã nghiến răng nhờ đồng đội dùng lưỡi lê chặt đứt cánh tay bị thương và tiếp tục chiến đấu. Ông dùng tay trái ôm bọc phá đánh mở đường, tạo thời cơ cho các lực lượng khác tiếp đánh chiếm đồn quân đối phương.
Với các thành tích trong chiến đấu, ngày 19/5/1952, La Văn Cầu được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, khi đó ông đang là Tiểu đội phó thuộc Trung đoàn 174, Đại đoàn 316. Cùng năm 1952, La Văn Cầu được trao tặng danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc theo Sắc lệnh số 107-SL ngày 10/8/1952.
Ông được phong hàm Đại tá từ năm 1985, và được tặng Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967)
Tên thật: Nguyễn Vịnh
Sinh ngày: 01/01/1914
Quê quán: Thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Cha: Nguyễn Hán
Mẹ: Trần Thị Thiển
Đại tướng Hoàng Văn Thái
(1915-1986)
Tên khai sinh:
Hoàng Văn Xiêm
Sinh ngày: 01/05/1915
Quê quán: Làng An Khang, tổng Đại Hoàng (nay thuộc thị trấn Tiền Hải), huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Tham gia cách mạng: 1936
Nhập ngũ: 1944
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Từ tháng 05/1938
Cấp bậc: Đại tướng (1980)
Anh hùng Cù Chính Lan
(1930-1951)
Quê quán: Làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An
Cha: Cù Khắc Nhượng
Mẹ: Hồ Thị Hạ
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 31/5/1952
Anh hùng Nguyễn Quốc Trị
(1921-1967)
Quê quán: Xã Đa Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
Nhập ngũ: 1945
Thượng tá: 1966
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1946
Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1952