Tên thật: Nguyễn Vịnh
Sinh ngày: 01/01/1914
Quê quán: Thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Cha: Nguyễn Hán
Mẹ: Trần Thị Thiển
<p>Tiến công chiến lược</p>
Là loại hình cơ bản của hoạt động tác chiến chiến lược của lực lượng vũ trang, được sử dụng nhằm đạt những mục đích chính trị - Quân sự có ý nghĩa chiến lược trong chiến tranh.
Được thực hiện bằng cách tiến hành các chiến dịch chiến lược và các hình thức hoạt động tác chiến khác, diễn ra trên một hoặc một số chiến trường tác chiến (hướng chiến lược) theo một ý định và kế hoạch thống nhất của Bộ Tổng tư lệnh.
Để đạt được mục đích, tiến công chiến lược phải đập tan được các tập đoàn chiến lược của lực lượng vũ trang đối phương, đôi khi còn loại khỏi vòng chiến một hoặc một số quốc gia và chiếm các vùng xung yếu chiến lược của đối phương, làm thay đổi cục diện chiến tranh hoặc kết thúc chiến tranh. Tiến công chiến lược có thể diễn ra thành giai đoạn quyết định của tiến trình chiến tranh và có thể kết thúc bằng cuộc tổng tiến công.
Trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam, tiến công chiến lược thường được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng giành quyền làm chủ trên quy mô lớn.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967)
Tên thật: Nguyễn Vịnh
Sinh ngày: 01/01/1914
Quê quán: Thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Cha: Nguyễn Hán
Mẹ: Trần Thị Thiển
Ông là con thứ 6 trong gia đình có 11 người con (tính cả anh em cùng cha khác mẹ). Ông sinh trưởng trong một gia đình trung nông, thuở nhỏ cũng được học hành. Năm 14 tuổi, cha qua đời, gia đình nghèo, ông bỏ học, đi làm tá điền kiếm sống và nuôi gia đình.
Đại tướng là một tướng lĩnh quân đội và là tướng chính trị đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng công tác ở nhiều lĩnh vực chính trị khác nhau và đều có khả năng phát triển lĩnh vực đó nên còn được gọi là "vị tướng phong trào". Ông giữ chức vụ Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Quân ủy Miền kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam trong chiến tranh Việt Nam, trực tiếp lãnh đạo chiến trường Miền Nam Việt Nam. Ông cũng là người phát triển phương châm chiến lược "Nắm thắt lưng địch mà đánh" cho toàn miền Nam của Quân Giải phóng miền Nam.
Quá trình công tác:
Năm 1943, ông tham gia cách mạng trong phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, lần lượt giữ các chức vụ: Bí thư chi bộ, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên.
Từ năm 1938 đến năm 1943, ông nhiều lần bị Pháp bắt giam ở nhà lao Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Đến khi Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) thì ông được ra tù. Sau khi ra tù và trở lại hoạt động, ông được bầu làm Bí thư Khu ủy khu IV và được cử đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào (tháng 8/1945).
Trong Đại hội Đảng ở Tân Trào, ông được đặt bí danh là Nguyễn Chí Thanh, được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ có nhiệm vụ theo dõi và tổ chức giành chính quyền tại Trung Kỳ trong Cách mạng tháng 8.
Từ năm 1946 đến 1948, ông làm Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên, Bí thư Phân Khu uỷ Bình - Trị - Thiên.
Từ năm 1948 đến 1950, ông làm Bí thư Liên khu ủy IV. Cuối năm 1950, ông được bổ nhiệm giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), ông được cử vào Bộ Chính trị.
Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), Nguyễn Chí Thanh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được cử vào Bộ Chính trị và Ban bí thư.
Năm 1961, được giao nhiệm vụ Phụ trách Ban Nông nghiệp của Đảng. Trong Chiến tranh Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng điều ông trở lại quân đội. Nguyễn Chí Thanh còn là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1961, ông liên tục phát động các phong trào thi đua trong các hợp tác xã, giúp ổn định tình hình phát triển trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của miền Bắc
Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam. Thời gian này ông lấy bí danh là Sáu Vi. Khi viết báo, ông thường lấy bút danh là Trường Sơn.
Tại chiến trường, ông là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phòng miền Nam với phương châm "Nắm thắt lưng địch mà đánh", lối đánh này dùng phương châm cơ động áp sát nhằm hạn chế ưu thế hỏa lực của quân Mỹ.
Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 1967 tại Hà Nội do một cơn nhồi máu cơ tim khi ra Hà Nội để báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình miền Nam. Trước khi qua đời, ông cũng đã được trao huy hiệu 30 năm tuổi Đảng Ngày nay tại Việt Nam đang có những con phố và ngôi trường mang tên ông. Tại thành phố Huế có một nhà tưởng niệm ông. Sau khi mất, ông được mai táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.
Đại tướng Hoàng Văn Thái
(1915-1986)
Tên khai sinh:
Hoàng Văn Xiêm
Sinh ngày: 01/05/1915
Quê quán: Làng An Khang, tổng Đại Hoàng (nay thuộc thị trấn Tiền Hải), huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Tham gia cách mạng: 1936
Nhập ngũ: 1944
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Từ tháng 05/1938
Cấp bậc: Đại tướng (1980)
Anh hùng Cù Chính Lan
(1930-1951)
Quê quán: Làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An
Cha: Cù Khắc Nhượng
Mẹ: Hồ Thị Hạ
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 31/5/1952
Anh hùng Nguyễn Quốc Trị
(1921-1967)
Quê quán: Xã Đa Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
Nhập ngũ: 1945
Thượng tá: 1966
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1946
Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1952
Anh hùng La Văn Cầu
(1932)
Tên khai sinh: Sầm Phúc Hướng
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
Cấp bậc: Đại tá
Khen thưởng: Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất
Đại tướng Hoàng Văn Thái
(1915-1986)
Tên khai sinh:
Hoàng Văn Xiêm
Sinh ngày: 01/05/1915
Quê quán: Làng An Khang, tổng Đại Hoàng (nay thuộc thị trấn Tiền Hải), huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Tham gia cách mạng: 1936
Nhập ngũ: 1944
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Từ tháng 05/1938
Cấp bậc: Đại tướng (1980)
Đại tướng Hoàng Văn Thái là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong sự hình thành và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam; người có công lao lớn trong cuộc chiến chống thực dân Pháp và ảnh hưởng lớn trong cuộc chiến chống đế quốc Mĩ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ông là Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, góp công trong nhiều chiến dịch quan trọng như Chiến dịch Biên giới thu đông (1950), Trận Điện Biên Phủ (1954), Chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch năm 1972, Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ông cũng là nhân vật chính trị cao cấp của Việt Nam, từng giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VII, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III, IV, V.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967)
Tên thật: Nguyễn Vịnh
Sinh ngày: 01/01/1914
Quê quán: Thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Cha: Nguyễn Hán
Mẹ: Trần Thị Thiển
Anh hùng Cù Chính Lan
(1930-1951)
Quê quán: Làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An
Cha: Cù Khắc Nhượng
Mẹ: Hồ Thị Hạ
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 31/5/1952
Anh hùng Nguyễn Quốc Trị
(1921-1967)
Quê quán: Xã Đa Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
Nhập ngũ: 1945
Thượng tá: 1966
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1946
Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1952
Anh hùng La Văn Cầu
(1932)
Tên khai sinh: Sầm Phúc Hướng
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
Cấp bậc: Đại tá
Khen thưởng: Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất
Anh hùng Cù Chính Lan
(1930-1951)
Quê quán: Làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An
Cha: Cù Khắc Nhượng
Mẹ: Hồ Thị Hạ
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 31/5/1952
Anh hùng Cù Chính Lan là một trong 7 cá nhân đầu tiên được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân của Việt Nam.
Ngày 13/12/1951, trong trận tấn công căn cứ điểm Giang Mỗ, anh đã một mình đuổi xe tăng Pháp, nhảy lên thành xe, ném lựu đạn vào buồng lái để tiêu diệt xe.
Anh sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, là con thứ ba và là con út. Mẹ mất khi anh mới 4 tuổi. Sau đó cha anh tục huyền với bà Hồ Thị Hoe và sinh hạ tiếp 4 người con nữa. Gia đình nghèo, từ nhỏ anh phải lao động vất vả để giúp đỡ sinh kế cho gia đình. Thuở nhỏ, anh còn có tên là "cu Nâu".
Tại Chiến dịch Hòa Bình, trong một trận phục kích trên đường số 6 tại Giang Mỗ (Hòa Bình) ngày 7/12/1951, do bị lộ trận địa, quân Pháp phản kích dữ dội. Anh là người đi sau cùng, dùng súng máy bắn kiềm chế đối phương cho đơn vị rút, rồi quay lại tìm người bị thương, đưa được ba đồng đội trở về đơn vị an toàn.
Ngày 13/12/1951, đơn vị lại bố trí phục kích quân Pháp lần thứ 2 tại Giang Mỗ. Bất ngờ có một xe tăng Pháp tiếp viện, bắn dữ dội vào đội hình, chặn đường rút và làm nhiều lính Việt Minh thương vong. Cù Chính Lan xông lên, nhảy lên xe tăng kề tiểu liên vào khe hở trên tháp xe bóp cò, nhưng không may tiểu liên bị hóc, chiếc xe vẫn vừa chạy vừa bắn. Cù Chính Lan hô anh em tập trung lưu đạn đến cho mình rồi lại nhanh nhẹn nhảy lên xe, giật nắp quăng lựu đạn vào trong xe, lính tăng Pháp nhặt lựu đạn ném ra và hốt hoảng lái xe tăng chuyển hướng. Thời cơ diệt xe tăng ngay trước mắt, Cù Chính Lan dũng cảm mở chốt lựu đạn, chờ cho khói thuốc xì ra được một vài giây rồi mới ném vào buồng lái, lựu đạn nổ diệt hết lính tăng trong xe, chiếc xe dừng lại tại chỗ, tạo điều kiện cho đồng đội hoàn thành nhiệm vụ. Do thành tích này, anh được tuyên dương trước Đại hội Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc.
Ngày 29/12/1951, đơn vị anh được lệnh đánh đồn Cô Tô (Hòa Bình). Tiểu đội anh được giao nhiệm vụ mở cửa hàng rào cho đại quân tấn công. Dù bị thương nặng 3 lần, anh vẫn cố gắng tham gia chiến đấu cho đến khi tử thương do mất máu.
Trong Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tháng 5/1952, anh được Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh truy tặng Huân chương Quân công hạng hai, Huân chương Kháng chiến hạng nhất.
Thông tin liên quan
Áo trấn thủ Anh hùng Cù Chính Lan, tiểu đội trưởng, đại đội 12, tiểu đoàn 353, trung đoàn 66, đại đoàn 304, mặc trong trận tiêu diệt xe tăng địch ở Giang Mỗ, xã Bình Thanh, tỉnh Hoà Bình, 12/1951
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967)
Tên thật: Nguyễn Vịnh
Sinh ngày: 01/01/1914
Quê quán: Thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Cha: Nguyễn Hán
Mẹ: Trần Thị Thiển
Đại tướng Hoàng Văn Thái
(1915-1986)
Tên khai sinh:
Hoàng Văn Xiêm
Sinh ngày: 01/05/1915
Quê quán: Làng An Khang, tổng Đại Hoàng (nay thuộc thị trấn Tiền Hải), huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Tham gia cách mạng: 1936
Nhập ngũ: 1944
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Từ tháng 05/1938
Cấp bậc: Đại tướng (1980)
Anh hùng Nguyễn Quốc Trị
(1921-1967)
Quê quán: Xã Đa Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
Nhập ngũ: 1945
Thượng tá: 1966
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1946
Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1952
Anh hùng La Văn Cầu
(1932)
Tên khai sinh: Sầm Phúc Hướng
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
Cấp bậc: Đại tá
Khen thưởng: Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất
Quay lại
Áo trấn thủ Anh hùng Cù Chính Lan, tiểu đội trưởng, đại đội 12, tiểu đoàn 353, trung đoàn 66, đại đoàn 304, mặc trong trận tiêu diệt xe tăng địch ở Giang Mỗ, xã Bình Thanh, tỉnh Hoà Bình, 12/1951
Anh hùng Nguyễn Quốc Trị
(1921-1967)
Quê quán: Xã Đa Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
Nhập ngũ: 1945
Thượng tá: 1966
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1946
Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1952
Trưởng thành từ chiến sĩ đến trung đoàn trưởng, tham gia nhiều chiến dịch lớn, diệt gần 100 địch.
Năm 1954, đồng chí là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ Đô vào tiếp quản Hà Nội. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân 1952.
Khi tuyên dương Anh hùng là đại đội trưởng thuộc Trung đoàn 102, Đại đoàn 308.
Trước cách mạng tháng Tám (1945) vào đội tự vệ tiền phong chống Nhật, cùng đồng đội diệt 10 lính Nhật (Nguyễn Quốc Trị diệt 2), đốt cháy 5 xe quân sự. Trong kháng chiến chống Pháp, 1945-1954 trưởng thành từ chiến sĩ đến trung đoàn trưởng, tham gia nhiều chiến dịch lớn, diệt gần 100 địch (phần lớn là lính Âu - Phi).
Nguyễn Quốc Trị giàu kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu công kiên và vận động, cùng đồng đội sáng tạo nhiều cách đánh: dẫn đơn vị chạy băng rừng theo địa bàn để chặn đánh quân Lơ Pagiơ và dẫn đầu tổ trung liên xung phong đánh áp đảo địch; chỉ huy trung đội đánh địch từ trên nóc nhà (trận Thằn Lằn, 12/1950); kết hợp kì tập với đòn tâm lí (trận Gối Hạc, 1951). Năm 1954 trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ Đô vào tiếp quản Hà Nội.
Huân chương: Quân công hạng ba, Chiến công hạng nhất, Kháng chiến hạng nhất.
Thông tin liên quan
<p>Sổ ghi chép</p>
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967)
Tên thật: Nguyễn Vịnh
Sinh ngày: 01/01/1914
Quê quán: Thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Cha: Nguyễn Hán
Mẹ: Trần Thị Thiển
Đại tướng Hoàng Văn Thái
(1915-1986)
Tên khai sinh:
Hoàng Văn Xiêm
Sinh ngày: 01/05/1915
Quê quán: Làng An Khang, tổng Đại Hoàng (nay thuộc thị trấn Tiền Hải), huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Tham gia cách mạng: 1936
Nhập ngũ: 1944
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Từ tháng 05/1938
Cấp bậc: Đại tướng (1980)
Anh hùng Cù Chính Lan
(1930-1951)
Quê quán: Làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An
Cha: Cù Khắc Nhượng
Mẹ: Hồ Thị Hạ
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 31/5/1952
Anh hùng La Văn Cầu
(1932)
Tên khai sinh: Sầm Phúc Hướng
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
Cấp bậc: Đại tá
Khen thưởng: Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất
Quay lại
<p>Sổ ghi chép</p>
Nguyễn Quốc Trị sử dụng ghi chép trong thời gian chiến đấu ở cứ điểm 206, 5/1954
Anh hùng La Văn Cầu
(1932)
Tên khai sinh: Sầm Phúc Hướng
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
Cấp bậc: Đại tá
Khen thưởng: Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất
Quá trình công tác:
Năm 1948, La Văn Cầu gia nhập Đại đội 671, một đơn vị địa phương Cao Bằng của quân đội Việt Minh (khi đó gọi là Quân đội Quốc gia Việt Nam, từ năm 1950 gọi là Quân đội nhân dân Việt Nam). La Văn Cầu được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1950.
Trong chiến tranh Đông Dương, từ năm 1948 -1952, La Văn Cầu đã tham gia chiến đấu 29 trận. Trận phục kích trên đường Bông Lau - Lũng Phầy ở Cao Bằng năm 1949, ông đã xung phong và một mình bắn chết lính Pháp trên xe tăng rồi nhảy lên xe đối phương dùng súng trên xe diệt thêm 10 lính Pháp nữa.
Trong trận Đông Khê thuộc Chiến dịch Biên giới năm 1950, La Văn Cầu là chỉ huy tổ bộc phá hàng rào để đơn vị phía sau tiến công đồn. Ông Cầu bị trúng đạn dập nát một phần cánh tay phải. La Văn Cầu đã nghiến răng nhờ đồng đội dùng lưỡi lê chặt đứt cánh tay bị thương và tiếp tục chiến đấu. Ông dùng tay trái ôm bọc phá đánh mở đường, tạo thời cơ cho các lực lượng khác tiếp đánh chiếm đồn quân đối phương.
Với các thành tích trong chiến đấu, ngày 19/5/1952, La Văn Cầu được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, khi đó ông đang là Tiểu đội phó thuộc Trung đoàn 174, Đại đoàn 316. Cùng năm 1952, La Văn Cầu được trao tặng danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc theo Sắc lệnh số 107-SL ngày 10/8/1952.
Ông được phong hàm Đại tá từ năm 1985, và được tặng Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967)
Tên thật: Nguyễn Vịnh
Sinh ngày: 01/01/1914
Quê quán: Thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Cha: Nguyễn Hán
Mẹ: Trần Thị Thiển
Đại tướng Hoàng Văn Thái
(1915-1986)
Tên khai sinh:
Hoàng Văn Xiêm
Sinh ngày: 01/05/1915
Quê quán: Làng An Khang, tổng Đại Hoàng (nay thuộc thị trấn Tiền Hải), huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Tham gia cách mạng: 1936
Nhập ngũ: 1944
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Từ tháng 05/1938
Cấp bậc: Đại tướng (1980)
Anh hùng Cù Chính Lan
(1930-1951)
Quê quán: Làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An
Cha: Cù Khắc Nhượng
Mẹ: Hồ Thị Hạ
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 31/5/1952
Anh hùng Nguyễn Quốc Trị
(1921-1967)
Quê quán: Xã Đa Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
Nhập ngũ: 1945
Thượng tá: 1966
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1946
Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1952