Chiến dịch quyết chiến chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm tiêu diệt quân Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giành thắng lợi quyết định trong chiến cục Đông Xuân (1953 - 1954). Chiến dịch do Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ chiến dịch, Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng, Lê Liêm làm Chủ nhiệm chính trị, Đặng Kim Giang làm Chủ nhiệm cung cấp.
Bộ chính trị Trung ương Đảng họp quyết định chủ trương mở chiến dịch Điện Biên Phủ, 6/12/1953.
Lực lượng tham gia gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312 và 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351.
Lực lượng quân Pháp ở Điện Biên Phủ: 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay (trong quá trình chiến dịch được tăng viện 4 tiểu đoàn và 2 đại đội dù), tổ chức phòng ngự thành 3 phân khu, 8 trung tâm đề kháng, gồm 49 cứ điểm được trang bị hỏa lực mạnh, có 2 căn cứ hỏa lực và 2 sân bay ở Mường Thanh và Hồng Cúm.
Chiến dịch dự định bắt đầu 25/1/1954 (kế hoạch đầu tiên là 20/1/1954), theo phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh", nhưng do địch đã tăng cường binh lực và củng cố hệ thống phòng ngự vững chắc, đồng thời về phía ta, việc đưa pháo vào trận địa và công tác tổ chức hiệp đồng chiến đấu bộ binh - pháo binh chưa hoàn tất, nên Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sửa đổi kế hoạch, tiếp tục chuẩn bị mọi mặt, chuyển sang thực hiện phương châm "đánh chắc tiến chắc", dùng cách đánh vây hãm tiến công, đột phá lần lượt để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm.
Chiều 13/3/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, diễn biến qua 3 đợt.
Đợt 1 (13-17/3), ta đập tan thế trận phòng ngự vòng ngoài của địch ở phía bắc và đông bắc, mở đầu bằng trận Him Lam (13/3/1954), tiếp đó tiêu diệt cụm cứ điểm đồi Độc Lập, bao vây, bức hàng cụm cứ điểm Bản Kéo (16/3/1954), đánh bại nhiều đợt phản kích của địch.
Đợt 2 (30/3-30/4), sau hơn 10 ngày xây dựng trận địa tiến công và bao vây với hàng trăm kilômét hào giao thông, hàng ngàn công sự và ụ súng các loại, ta tiến công diệt các cứ điểm E, D1, D2, C1 trên dãy đồi phía đông và 106, 311 trên hướng tây - bắc sân bay Mường Thanh, nhưng đánh cứ điểm và các cứ điểm C2, 105 không thành công, bị địch phản kích chiếm lại nửa đồi C1. Từ ngày 16/4 ta phát triển trận địa bao vây, tiến công, đánh lấn diệt các cứ điểm 105, 206 đào hào cắt đôi sân bay Mường Thanh, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch nhằm giành lại sân bay, kết hợp bắn tỉa và đưa pháo phòng không xuống cánh đồng Mường Thanh khống chế rồi triệt hẳn tiếp tế đường không của địch.
Đợt 3 (1-7/5), ta lần lượt đánh chiếm các điểm cao còn lại ở phía đông (C1, C2 và A1), diệt một số cứ điểm ở phía tây, tăng cường vây ép phân khu Hồng Cúm, bao vây uy hiếp Sở Chỉ huy trung tâm, dập tắt hi vọng rút chạy của địch; 15 giờ ngày 7/5 tổng công kích vào trung tâm Mường Thanh, bắt tướng Đờ Caxtơri và toàn bộ ban tham mưu tập đoàn cứ điểm, buộc số địch còn lại ở phân khu trung tâm phải đầu hàng, truy kích và bắt gọn bộ phận địch ở Hồng Cúm định rút chạy.
Chiến dịch Điện Biên Phủ giành toàn thắng, diệt và bắt hơn 16.200 địch (có 1 thiếu tướng, 369 sĩ quan từ đại tá đến thiếu úy), thu toàn bộ vũ khí trang bị, bắn rơi 62 máy bay. Chiến dịch Điện Biên Phủ là đòn tiến công tiêu diệt lớn nhất, điển hình nhất của quân và dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, cùng với thắng lợi trên các chiến trường khác trong Đông Xuân 1953-54 giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơnevơ về Đông Dương (8/5-21/7/1954) đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.