<p>Phát triển chiến tranh du kích</p> <p>tiến lên vận động chiến, 1948-1950</p>
<p>Phát triển chiến tranh du kích</p> <p>tiến lên vận động chiến, 1948-1950</p>
Thất bại trong chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”, thực dân Pháp buộc phải chuyển sang “đánh kéo dài”. Đảng ta chủ trương phát triển chiến tranh du kích, từng bước tiến lên vận động chiến. Ở vùng địch tạm chiếm, phong trào phá tề của quân, dân ta diễn ra quyết liệt. Bộ đội địa phương, dân quân du kích tiêu diệt hàng nghìn tổ chức tề ngụy. Ở vùng tự do, vùng giáp ranh, diễn ra cuộc chiến đấu giằng co giữa hai bên, nhiều căn cứ, làng chiến đấu xuất hiện trên cả nước.
Từ hình thái du kích chiến tranh là chính, bộ đội chủ lực tiến lên vận động chiến, mở một số chiến dịch tiến công, tạo chuyển biến quan trọng thay đổi cục diện cuộc chiến. Năm 1950, Trung ương Đảng, Chính phủ Việt Nam mở Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, khơi thông đường liên lạc với các nước xã hội chủ nghĩa.
Làng chiến đấu
Làng chiến đấu
Trong kháng chiến chống Pháp, làng chiến đấu được xây dựng và chuẩn bị mọi mặt để nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương vừa sinh sống vừa bám trụ chiến đấu.
Các làng chiến đấu được xây dựng vững mạnh toàn diện, tổ chức Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể nhân dân được tổ chức và giáo dục chu đáo, thế trận, công sự vật cản được chuẩn bị để sẵn sàng chống địch.
Làng chiến đấu đã phát huy tốt vai trò cơ sở của chiến tranh nhân dân.
Trong kháng chiến chống Pháp, cả nước có 480 làng chiến đấu ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam.
<p>Làng chiến đấu Cảnh Dương - huyện Quảng Trạch - tỉnh Quảng Bình</p>
Nhân dân xã Cảnh Dương, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đào hào đắp lũy xây dựng làng chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp, 1950
Làng chiến đấu Cảnh Dương, làng chiến đấu do nhân dân xã Cảnh Dương (huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) xây dựng trong kháng chiến chống Pháp.
Từ tháng 7/1947, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, dân quân du kích và nhân dân Cảnh Dương tiến hành rào làng, xây dựng hàng nghìn công sự và hầm hố chiến đấu, hào giao thông nối liền các ngõ xóm. Dựa vào làng chiến đấu, du kích và nhân dân kiên cường bám trụ, đánh bại nhiều cuộc càn quét của quân Pháp, góp phần đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích ở vùng giáp ranh.
Làng chiến đấu tiêu biểu của tỉnh Quảng Bình và Liên khu 4, Cảnh Dương được nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1976.
Ban chỉ huy thôn Cảnh Dương họp bàn kế hoạch diệt địch
<p>Lễ trao tặng huân chương và phát động phong trào tham gia du kích của thôn Cảnh Dương, Quảng Bình, 1948</p>
<p>Lễ phát động thi đua phát triển chiến tranh du kích của Quảng Bình cùng ngày thành lập tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của tỉnh năm 1950. Đồng chí Hoàng Văn Diệm chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chính Quảng Bình châm lửa khai mạc, trung đội du kích nữ của Cảnh Dương và Cự Lẫm</p>
<p>Một đơn vị nữ du kích Cảnh Dương Quảng Bình, 1950</p>
Làng chiến đấu Cảnh Dương
Làng chiến đấu Cảnh Dương
Làng chiến đấu Cảnh Dương
Con cháu các đồng chí du kích Cảnh Dương, Quảng Bình ca múa liên hoan mừng ngày hòa bình lập lại
<p>Du kích Cảnh Dương những người lập nhiều thành tích trong kháng chiến ngày nay già trẻ, gái, trai lại tham gia luyện tập để sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng biển của mình, 6/1957</p>
<p>Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm xã Cảnh Dương tỉnh Quảng Bình, đại tướng hỏi chuyện cán bộ xã tại Cửa Lạch- Cảnh Dương, 6/1961</p>
<p>Dân quân du kích Cảnh Dương luyện tập tác chiến bảo vệ làng, 1953</p>
<p>Đơn vị du kích Cảnh Dương Quảng Bình đã tham gia chiến đấu bảo vệ làng, 1948-1954</p>
<p>Du kích cùng nhân dân Cảnh Dương Quảng Bình sản xuất tự túc, 5/10/1951</p>
<p>Nhân dân xã Cảnh Dương, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đóng góp cột nhà xây dựng làng chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp, 1950</p>
Giấy khen Uỷ ban hành chính kháng chiến Khu 4, tặng du kích xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình về thành tích chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp, 10/01/1948
<p>Nhân dân xã Cảnh Dương, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đào hào đắp lũy xây dựng làng chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp, 1950</p>
Quay lại
Ban chỉ huy thôn Cảnh Dương họp bàn kế hoạch diệt địch
Quay lại
<p>Lễ trao tặng huân chương và phát động phong trào tham gia du kích của thôn Cảnh Dương, Quảng Bình, 1948</p>
Quay lại
<p>Lễ phát động thi đua phát triển chiến tranh du kích của Quảng Bình cùng ngày thành lập tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của tỉnh năm 1950. Đồng chí Hoàng Văn Diệm chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chính Quảng Bình châm lửa khai mạc, trung đội du kích nữ của Cảnh Dương và Cự Lẫm</p>
Quay lại
<p>Một đơn vị nữ du kích Cảnh Dương Quảng Bình, 1950</p>
Quay lại
Làng chiến đấu Cảnh Dương
Quay lại
Làng chiến đấu Cảnh Dương
Quay lại
Làng chiến đấu Cảnh Dương
Quay lại
Con cháu các đồng chí du kích Cảnh Dương, Quảng Bình ca múa liên hoan mừng ngày hòa bình lập lại
Quay lại
<p>Du kích Cảnh Dương những người lập nhiều thành tích trong kháng chiến ngày nay già trẻ, gái, trai lại tham gia luyện tập để sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng biển của mình, 6/1957</p>
Quay lại
<p>Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm xã Cảnh Dương tỉnh Quảng Bình, đại tướng hỏi chuyện cán bộ xã tại Cửa Lạch- Cảnh Dương, 6/1961</p>
Quay lại
<p>Dân quân du kích Cảnh Dương luyện tập tác chiến bảo vệ làng, 1953</p>
Quay lại
<p>Đơn vị du kích Cảnh Dương Quảng Bình đã tham gia chiến đấu bảo vệ làng, 1948-1954</p>
Quay lại
<p>Du kích cùng nhân dân Cảnh Dương Quảng Bình sản xuất tự túc, 5/10/1951</p>
Quay lại
<p>Nhân dân xã Cảnh Dương, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đóng góp cột nhà xây dựng làng chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp, 1950</p>
Quay lại
Giấy khen Uỷ ban hành chính kháng chiến Khu 4, tặng du kích xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình về thành tích chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp, 10/01/1948
Quay lại
<p>Nhân dân xã Cảnh Dương, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đào hào đắp lũy xây dựng làng chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp, 1950</p>
<p>Làng chiến đấu Nguyên Xá - huyện Đông Hưng - tỉnh Thái Bình</p>
Nhân dân Nguyên Xá, Thái Bình họp bàn kế hoạch chống càn quét và mít tinh nhận cờ Hồ Chủ tịch tặng năm 1953 về thành tích chiến đấu và bảo vệ xóm làng
Làng chiến đấu do nhân dân xã Nguyên Xá (huyện Tiên Hưng, nay là Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) xây dựng trong kháng chiến chống Pháp, theo nghị quyết và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Thái Bình.
Đầu năm 1947, dựa vào địa hình, địa vật và các cấu trúc sẵn có, nhân dân và du kích xã rào làng, đào hào đắp lũy, hình thành các tuyến phòng thủ liên hoàn gồm hàng chục nghìn hầm hố chiến đấu, hệ thống hào giao thông nối liền các ngõ xóm, đặt các loại chông mìn, cạm bẫy...
Dựa vào làng chiến đấu, du kích và nhân dân Nguyên Xá bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của quân Pháp, đồng thời tổ chức quấy rối, đánh giao thông, gây cho địch nhiều thiệt hại, góp phần đẩy mạnh chiến tranh du kích vùng sau lưng địch ở đồng bằng Bắc Bộ. Được chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ "Nguyên Xá làng kiểu mẫu" năm 1952.
Đại tướng Tổng Tư lệnh thăm làng chiến đấu chống Pháp điển hình trước kia (làng Nguyên Xá - Thái Bình tháng 3/1956)
<p>Đại tướng thăm làng Nguyên Xá Thái Bình, 3/1956</p>
<p>Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm nhân dân xã Nguyên Xá, Thái Bình, 3/1956</p>
<p>Hai đồng chí phụ trách du kích làng chiến đấu Nguyên Xá dẫn Đại tướng đi xem những hầm bí mật, 3/1956</p>
Lão du kích Nguyên Xá chiến đấu bảo vệ làng
<p>Du kích Nguyên Xá Thái Bình họp rút kinh nghiệm chiến đấu bảo vệ làng, 1954</p>
<p>Các chiến sĩ xuất sắc về mọi mặt của Nguyên Xá Thái Bình, 1954</p>
<p>Quân và dân Nguyên Xá tổ chức mít tinh chào mừng thắng lợi của Hiệp định Giơnevơ, 1954</p>
<p>Một góc làng chiến đấu với hầm lũy kiên cố ở làng Nguyên Xá, Tiên Hưng, Thái Bình trong kháng chiến chống Pháp</p>
Làng kháng chiến xã Nguyên Xá và Nghĩa trang Liệt sỹ huyện Đông Hưng
<p>Chi ủy xã Cổ Phúc - Thái Bình họp bàn kế hoạch chống càn quét bảo vệ thôn xã, 1952 - 1953</p>
Đội nữ du kích Tán Thuật, Kiến Xương, Thái Bình trong kháng chiến chống Pháp
Phụ nữ "Thần đầu, thần đuống" huyện Thái Thuỵ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
<p>Phụ nữ và nhân dân tỉnh Thái Bình đấu tranh chống địch bắt thanh niên đi lính trước dinh Tỉnh trưởng nguỵ quyền, 1953</p>
Quay lại
Đại tướng Tổng Tư lệnh thăm làng chiến đấu chống Pháp điển hình trước kia (làng Nguyên Xá - Thái Bình tháng 3/1956)
Quay lại
<p>Đại tướng thăm làng Nguyên Xá Thái Bình, 3/1956</p>
Quay lại
<p>Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm nhân dân xã Nguyên Xá, Thái Bình, 3/1956</p>
Quay lại
<p>Hai đồng chí phụ trách du kích làng chiến đấu Nguyên Xá dẫn Đại tướng đi xem những hầm bí mật, 3/1956</p>
Quay lại
Lão du kích Nguyên Xá chiến đấu bảo vệ làng
Quay lại
<p>Du kích Nguyên Xá Thái Bình họp rút kinh nghiệm chiến đấu bảo vệ làng, 1954</p>
Quay lại
<p>Các chiến sĩ xuất sắc về mọi mặt của Nguyên Xá Thái Bình, 1954</p>
Quay lại
<p>Quân và dân Nguyên Xá tổ chức mít tinh chào mừng thắng lợi của Hiệp định Giơnevơ, 1954</p>
Quay lại
<p>Một góc làng chiến đấu với hầm lũy kiên cố ở làng Nguyên Xá, Tiên Hưng, Thái Bình trong kháng chiến chống Pháp</p>
Ảnh: Mô hình góc làng chiến đấu
Quay lại
Làng kháng chiến xã Nguyên Xá và Nghĩa trang Liệt sỹ huyện Đông Hưng
Di tích Lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia
Quay lại
<p>Chi ủy xã Cổ Phúc - Thái Bình họp bàn kế hoạch chống càn quét bảo vệ thôn xã, 1952 - 1953</p>
Quay lại
Đội nữ du kích Tán Thuật, Kiến Xương, Thái Bình trong kháng chiến chống Pháp
Quay lại
Phụ nữ "Thần đầu, thần đuống" huyện Thái Thuỵ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Quay lại
<p>Phụ nữ và nhân dân tỉnh Thái Bình đấu tranh chống địch bắt thanh niên đi lính trước dinh Tỉnh trưởng nguỵ quyền, 1953</p>
<p>Làng chiến đấu Cẩm Giàng - tỉnh Hải Dương</p>
Nhân dân huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương bàn kế hoạch xây dựng làng chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp
Làng chiến đấu do nhân dân Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương xây dựng trong kháng chiến chống Pháp. Ngày 17/8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Mặt trận Việt Minh; quần chúng nhân dân, tự vệ Cẩm Giàng từ căn cứ Phú Lộc và nhiều nơi khác tiến vào huyện đường thu vũ khí, sổ sách, triện bạ…
Huyện Cẩm Giàng là huyện đầu tiên giành chính quyền trong cách mạng tháng 8 năm 1945 trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng tổ quốc đã có hàng vạn người con của quê hương lên đường tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Hàng ngàn người đi dân công hoả tuyến và thanh niên xung phong, tham gia Quân đội. Nhân dân và Lực lượng vũ trang của huyện Cẩm Giàng và nhiều xã, thị trấn đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Nhân dân huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương bàn kế hoạch xây dựng làng chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp
Quay lại
Nhân dân huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương bàn kế hoạch xây dựng làng chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp
<p>Làng chiến đấu Củ Chi</p>
Làng chiến đấu Củ Chi
Địa đạo Củ Chi là căn cứ chiến lược gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp trong giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1948. Công trình này được quân và dân xã Tân Phú Trung và xã Phước Vĩnh An cùng nhau thực hiện để giúp bộ đội ẩn nấp, cất giữ vũ khí, tư trang, chờ cơ hội phản công.
Quay lại
Làng chiến đấu Củ Chi
Quay lại
Làng chiến đấu Củ Chi
Quay lại
Làng chiến đấu Củ Chi
<p>Làng chiến đấu Nam Hồng - huyện Đông Anh - Hà Nội</p>
Địa đạo Nam Hồng - Đông Anh, Hà Nội
Làng chiến đấu Nam Hồng (huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội) được hình thành ngay sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946).
Tại đây, quân và dân xã Nam Hồng đã chủ động rào làng, đắp lũy, kết hợp với hệ thống giao thông hào liên hoàn, tạo sự linh hoạt trong tác chiến. Nhân dân nối thông các hầm bí mật thành hệ thống địa đạo trong lòng đất. Hơn 11km địa đạo đã được hình thành và kết nối ngay trong địa bàn xã, được quân và dân Nam Hồng hoàn thành trong thời gian gần một năm.
Nhờ có địa đạo Nam Hồng, trong suốt 9 năm kháng chiến, quân - dân Nam Hồng đã đánh 308 trận, tiêu diệt và bắt sống hàng nghìn tên địch, thu nhiều vũ khí. Với những đóng góp xuất sắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ngày 29/1/1996, xã Nam Hồng được phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngày 13/2/1996, Bộ Văn hóa-Thông tin có quyết định xếp hạng cấp Quốc gia Di tích địa đạo Nam Hồng.
Địa đạo Nam Hồng - Đông Anh - Hà Nội
Địa đạo Nam Hồng - Đông Anh - Hà Nội
Quay lại
Địa đạo Nam Hồng - Đông Anh - Hà Nội
Quay lại
Địa đạo Nam Hồng - Đông Anh - Hà Nội
<p>Làng kháng chiến Tam Hưng</p>
Đội du kích Tam Hưng
Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, có biết bao nhiêu tên làng, tên núi, tên sông... đã trở thành địa danh nổi tiếng của đất nước. Xã Tam Hưng - huyện Thanh Oai là một địa danh nổi tiếng mà lịch sử Đảng bộ huyện đã ghi nhận.
Cuối năm 1947, tình hình chiến sự ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ giữa ta và địch diễn ra ác liệt hơn. Trên địa bàn tỉnh Hà Đông, sau khi đánh chiếm thị xã (3/1947), thực dân Pháp đã kiểm soát phần lớn các làng ven sông Nhuệ, ở phía bắc đường 71 và chiếm đóng một số vị trí trên đường số 6 và đường 22. Yêu cầu đặt ra lúc này cho Huyện ủy Liên Nam là tổ chức lại một số đơn vị hành chính địa phương để đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ trong điều hành kháng chiến. Xã Tam Hưng ra đời do sự sáp nhập của 2 xã Đại Hưng và Tam Khê.
Xét về vị trí, Tam Hưng có đường 71 từ Bình Đà đi Thường Tín; về lực lượng, nơi đây là mảnh đất vốn có truyền thống cách mạng từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, lực lượng chính trị mạnh, làng chiến đầu được củng cố tốt. Là địa khu an toàn của một số cơ quan Trung ương, của tỉnh Hà Đông, là khu vực trên đường rút lui của quân chủ lực, địa bàn có tác động lớn đến cục diện chiến trường, Tam Hưng trở thành nơi tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Bảo vệ Tam Hưng trở thành nhiệm vụ có tầm quan trọng đặt biệt nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực thọc sâu vào vùng sau lưng địch. Huyện ủy Liên Nam xác định, muốn giữ vũng được phong trào cách mạng ở Tam Hưng thì phải xây dựng làng kháng chiến, khu du kích kiên cố. Ngày 20/8/1948, Đại hội chi bộ xã Tam Hưng đã đề ra chủ trương “thành lập xã đội với sự chỉ đạo thống nhất, tăng cường lực lượng dân quân du kích, củng cố làng chiến đấu,... kết hợp giữa huấn luyện du kích với đưa đi chiến đấu thực tế". Thực hiện nghị quyết Đại hội, công tác xây dựng lực lượng vũ trang được đặc biệt quan tâm.
Đội du kích tập trung của xã với số lượng là 60 đội viên được biên chế theo từng tiểu đội. Mỗi thôn có một trung đội dân quân với số lượng không hạn chế, có thôn lên đến 50 người. Thôn Hưng Giáo còn xây dựng được tiểu đội nữ du kích. Công tác rào làng kháng chiến được đẩy mạnh. Lợi dụng các lũy tre xung quanh các thôn, nhân dân tiến hành chặt tre đóng cọc, níu kéo cây và dong tre buộc chặt lấy nhau trở thành hàng rào dày đặc vững chắc. Hàng rào kín mít, mỗi làng chỉ để 2 hoặc 3 cổng chống vào làng. Các cổng này có vọng gác, ban ngày chống lên cho nhân dân đi lại, ban đêm sập xuống, gài mìn để ngăn chặn địch tập kích vào làng. Phía trong hàng rào là hệ thống giao thông hầm, hào kiên cố chằng chịt. Các đường hầm địa đạo nằm ngầm sâu dưới lòng đất, với độ dài hàng nghìn mét, rộng từ 1 đến 1,2m, cao từ 1,5 đến 2m, một số thôn được nối với nhau bằng đường hầm liên hoàn. Mỗi đường hầm đều có ngách thông ra bên ngoài đảm bảo khi tác chiến vừa dễ công, vừa dễ thủ, từng đoạn có cửa ngăn khói đề phòng địch phát hiện và hun hầm. Toàn xã đã xây dựng được hệ thống giao thông hào bao quanh các làng với 7.884m, đường hầm liên hoàn chiến đấu dài 4.872m, đường giao thông hào xung quanh các làng 8.126m. Ngoài ra, các gia đình còn đào hằm tránh phi pháo, hầm cất giấu thóc lúa và bảo vệ trâu bò. Các cán bộ, đảng viên và du kích đến có hầm bí mật. Hệ thống hầm hào này được bố trị ở tất cả các thôn trên địa bàn xã, trở thành xã điển hình sáng tạo xây dựng làng kháng chiến kiểu mẫu được phổ biến kinh nghiệm cho nhiều xã trong huyện và nhiều nơi trong tỉnh.
Chỉ trong một thời gian ngắn từ đầu năm 1948 đến tháng 01/1950, hiệu quả chiến đấu của làng kháng chiến Tam Hưng đã được phát huy, đánh lui nhiều trận càn của địch. Chỉ riêng năm 1948, địch đã mở tới 82 trận càn quét hòng phá vỡ thế trận kháng chiến, xóa hệ thống hầm hào bí mật và cơ sở cách mạng của ta, gây cho Tam Hưng những tổn thất không nhỏ. Quân và dân Tam Hưng đã chiến đấu anh dũng, 72 tên địch đã bị tiêu diệt, hàng chục tên khác bị thương, Mỗi đảng viên, mỗi người dân đều kiên trì bám từng căn nhà, giặc đến là đánh, giặc đi lại cũng có hậu phương. Không chịu từ bỏ ý định, Pháp tăng cường lực lượng cùng với xe tăng, máy bay, hỏa lực nhằm xóa sổ các khu du kích của ta. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, làng kháng chiến Tam Hưng lớn mạnh dần lên trong thực tiễn chiến đấu. Bộ đội và du kích đã nhận được sự giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần của nhân dân Tam Hưng. Ngày 01/4/1949, địch huy động 1 đại đội lính Âu – Phi và 1 trung đội địa phương quân đóng tại Thạch Bích, có sự yểm trợ của xe tăng và phi pháo, chia quân làm 3 mũi tấn công làng Tê Quả. Với tinh thần cảnh giác cao độ, quân dân Tê Quả đã hạ gục 2 tên lính Âu – Phi, 5 lần xung phong của địch đều bị bẻ gây. Phải đến gần trưa, nhờ lực lượng đông, hỏa lực mạnh địch mới tiến vào được làng. Du kích đã linh hoạt chuyển sang đánh vận động trong không gian hẹp. Với tinh thần dũng cảm, từ các hầm nhỏ, du kích bất ngờ xông lên tập kích địch, đã hạ thêm được 7 tên lính Âu – Phi và 3 ngụy binh phải bỏ mạng, máu địch loang khắp ngô xóm.
Phát huy tinh thần và thắng lợi trong các trận chiến đấu ở Tê Quả, dân quân du kích Song Khê cũng lập nhiều chiến công vang dội trong các trận đánh ngày 02/6/1949. Với tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu, từ tối hôm trước du kích đã tổ chức chôn mìn tại các nơi hiểm yếu. Phối hợp với một tiểu đội của bộ đội Liên Nam đợt xung phong đầu tiên của địch đã bị đánh bật, với 4 tên bị diệt và hàng chục tên khác bị thương. Không đạt được mục tiêu trong đợt xung phong đầu tiên, bọn địch xả súng bắn bừa bãi vào chiến lũy. Đến gần trưa, chúng mở đợt tấn công vào phía Đông Nam của làng, ở đó chúng vấp phải mìn đã chôn sẵn, 8 tên chết, hàng chục tên khác bị thương và phải rút chạy trong cơn hoảng loạn. Mặc dù gặp những thất bại nặng nề trong các lần tiến công trước, nhưng thực dân Pháp không từ bỏ dã tâm tiêu diệt lực lượng kháng chiến, khống chế địa bàn. Chúng huy động một đại đội lính Âu – Phi và địa phương quân từ các bốt Thạch Bích, Khúc Thủy phục vụ cho cuộc hành quân càn quét vào Bùi Xá ngày 20/6/1949. Trước khi bộ binh tiến vào, địch cho pháo binh bắn xối xả vào các làng dọc 2 bên đường. Cả làng Bùi Xá đều lao vào trận chiến, một số nhà được chôn mìn từ trước để chờ giặc tới. Từng mái nhà, bờ ao, ngõ xóm... trở thành nơi giành giật hết sức quyết liệt giữa ta và địch. Bùi Xã trở thành chiến trường ác liệt. Chính trong thời khắc cam go đó, sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân được phát huy cao độ, không phân biệt già, trẻ, gái, trai... đều trở thành chiến sỹ. Cụ Vương Thị Điều, mẹ của 2 đảng viên là du kích, đã tiếp tế cho các con mình từng quả lựu đạn, nắm cơm, ngụm nước... để đánh giặc. Nhiều giờ không tìm được du kích và bộ đội, giặc điên cuồng phóng lửa đốt cháy nhà cửa, cướp bóc tài sản rồi buộc phải rút quân với 16 xác chết cùng hàng chục tên bị thương.
Giữa năm 1949, quân và dân Tam Hưng tiếp tục đương đầu với cuộc càn quét lớn của địch. Kết quả, đã đánh lui 5 lần tấn công của địch, diệt hàng chục tên và làm bị thương nhiều tên khác. Trong trận này, địch bắt được bí thư chi bộ Bùi Tiến Thiệm. Mặc dù bị tra tấn, toàn thân bị dập nát nhưng đồng chí vẫn giữ tấm lòng kiên trung. Không lay chuyển được ý chí người đảng viên cộng sản, bọn giặc đã hèn hạ giết hại đồng chí Thiệm. Tấm gương hy sinh sáng ngời của người con Tam Hưng anh dũng đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đáng chú ý là trận chống càn ngày 01/6/1950, Pháp mở một trận càn quét lớn hòng triệt hạ làng kháng chiến Tam Hưng, mục tiêu chính là thôn Hưng Giáo - nơi có phong trào du kích phát triển mạnh. Chúng huy động hơn 2000 quân cơ động có cơ giới và phi pháo yểm trợ từ Khúc Thủy đánh xuống và từ Thạch Bích đánh vào, tổ chức tấn công từ 4 hướng đồng loạt tấn công vào các làng trong xã. Lực lượng du kích chiến đấu ngoan cường, quyết liệt cầm cự suốt từ sáng tới tối, chiến đấu đến quả lựu đạn và viên đạn cuối cùng phải rút xuống hầm, địch mới vào được làng. Đặc biệt ở địa bàn Hưng Giáo, nơi có tiểu đội nữ du kích, hai bên chiến đấu dữ dội, biết biết lực lượng của ta mỏng, du kích đã rút xuống hầm bí mật, địch lùng sục khắp nơi và phát hiện được 1 cửa hầm, chúng bắt được 8 nữ du kích và tra tấn hòng tìm các hầm chiến đấu khác. Nhưng ý đồ đen tối đó đã thất bại trước khí phách ngoan cường của các nữ du kích Hưng Giáo. Chúng đã dùng lưỡi lê đâm nữ du kích Nguyễn Thị Ân, 7 người khác bị giam vào nhà Tiền - Hà Nội. Mặc dù phải chịu cực hình tra tấn dã man của bọn cai ngục nhưng tất cả đều thể hiện ý chí sắt đá, tinh thần kiên quyết bảo vệ bí mật đến cùng. Quân địch đóng quân lại và càn quét, đánh phá liên tục 2 ngày 7- 8/01/1950, đốt phá 250 nóc nhà, cướp nhiều trâu bò, thóc lúa, cuốc phá hơn 1000 hầm hào và 10 hầm bí mật, đến ngày 9/1 địch rút khỏi Tam Hưng. Trong trận này, quân dân Tam Hưng đã tiêu diệt và làm bị thương 40 tên giặc, bảo vệ được làng kháng chiến. Tuy nhiên, do lực lượng không cân sức, ta có 4 đồng chí cán bộ, đảng viên và 12 du kích dũng cảm hy sinh. Sau trận cần dữ dội đó, nhiều lần địch trở lại càn quét xóm làng Tam Hưng nhưng đều không đạt được mục đích.
Qua 5 năm đầu tham gia kháng chiến, quân và dân Tam Hưng đã đánh 172 trận, tiêu diệt hơn 400 tên, làm hàng trăm tên khác bị thương, giữ vững được địa bàn và tạo điều kiện củng cố các khu du kích khác trên toàn tỉnh. Làng kháng chiến Tam Hưng cũng được xây dựng, củng cố khá hoàn thiện đảm bảo an toàn địa bàn cho bộ đội và Huyện ủy Liên Nam, Tỉnh ủy Hà Đông có thời gian đóng tại đây. Ngày 20/12/1949, tại Mỹ Đức, Mặt trận Liên Việt đã trao tặng Tam Hưng 4 chữ vàng "Tam Hưng anh dũng". Đây là vinh dự lớn mà Đảng và Chính phủ đã ghi nhận về những đóng góp của quân dân Tam Hưng. Sự hy sinh của các anh hùng liệt sỹ đã tạo nên một Tam Hưng kiên cường cách mạng. Quê hương Tam Hưng anh dũng đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" (tháng 12/1995).
<p>Làng Kháng chiến Tam Hưng Anh Dũng</p>
<p>Nhân dân xã Tam Hưng tổ chức rào làng chống địch càn quét</p>
<p>Nhân dân Tam Hưng bảo vệ cán bộ (đưa cán bộ xuống hầm bí mật) trong những ngày giặc Pháp càn quét</p>
<p>Du kích Tam Hưng luyện tập sẵn sàng đánh giặc Pháp càn quét</p>
Quay lại
<p>Làng Kháng chiến Tam Hưng Anh Dũng</p>
Lễ nhận cờ thưởng của Mặt trận Liên Việt tặng "Tam Hưng Anh Dũng" năm 1948
Làng kháng chiến Tam Hưng đã trở thành mẫu mực ở đồng bằng Bắc bộ. Hiệu quả kháng chiến ở đây trở thành biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Chỉ riêng năm 1948 địch đã mở 72 trận càn quét lớn nhỏ vào các làng chiến đấu. Những trận chống càn lớn như ngày 01/4/1948 ở Tê Quả, ngày 06/5/1948 ở Đại Định, ngày 02/6/1948 ở Song Khê, ngày 13/8/1948, 13/12/1948 ở Hưng Giáo và Lê Dương… thắng lợi giòn giã, 72 tên địch bị tiêu diệt và hàng chục tên khác bị thương.
Làng kháng chiến Tam Hưng được Tỉnh ủy - Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh tổ chức rút kinh nghiệm và phổ biến cho các địa phương học tập, vận dụng. Năm 1948, Liên khu ủy III và một số địa phương về Tam Hưng thăm, xem xét học hỏi kinh nghiệm xây dựng làng kháng chiến. Làng kháng chiến Tam Hưng đi vào lịch sử chống giặc ngoại xâm của nhân dân trong huyện.
Quay lại
<p>Nhân dân xã Tam Hưng tổ chức rào làng chống địch càn quét</p>
Nhân dân xã Tam Hưng tổ chức rào làng chống địch càn quét
Quay lại
<p>Nhân dân Tam Hưng bảo vệ cán bộ (đưa cán bộ xuống hầm bí mật) trong những ngày giặc Pháp càn quét</p>
Quay lại
<p>Du kích Tam Hưng luyện tập sẵn sàng đánh giặc Pháp càn quét</p>
<p>Nhân dân làng Thử Sĩ, Tiên Lữ, Hưng Yên nhiệt liệt đón mừng đoàn quân sự của nước cộng hòa Angieri tới thăm, 21/4/1959</p>
Nhân dân làng Thử Sĩ, Tiên Lữ, Hưng Yên nhiệt liệt đón mừng đoàn quân sự của nước cộng hòa Angieri tới thăm, 21/4/1959
Nhân dân làng Thử Sĩ, Tiên Lữ, Hưng Yên một làng chiến đấu lập nhiều chiến công trong kháng chiến chống Pháp nhiệt liệt đón mừng đoàn quân sự của nước cộng hòa Angieri tới thăm, 21/4/1959
<p>Nhân dân đồng bằng Bắc Bộ đào giao thông hào trong kháng chiến chống Pháp, 1951</p>
Nhân dân đồng bằng Bắc bộ đào giao thông hào từ làng nọ sang làng kia để xây dựng làng chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp, 1951
Đào hầm đắp lũy xây dựng làng chiến đấu của nhân dân Nam Bộ, 1945-1954
Làng chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp
<p>Ụ súng trước cổng làng chiến đấu, 1951-1953</p>
<p>Làng chiến đấu Stơr - xã Tơ Tung - huyện Kbang - tỉnh Gia Lai</p>
Đội trưởng Đinh Núp cùng đội du kích cắm chông xây dựng làng chiến đấu
Làng chiến đấu tiêu biểu của các dân tộc vùng núi Tây Nguyên, do nhân dân làng Stơr (xã Nam nay là xã Tơ Tung, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai) xây dựng trong kháng chiến chống Pháp.
Làng có 18 gia đình người dân tộc Bana với 52 nhân khẩu sống du canh ven đường 19; những năm 1947-1949, mặc dù mất liên lạc với cách mạng, bị địch bao vây, 5 lần thay đổi chỗ ở, vẫn một lòng theo Cách mạng, tự thành lập đội du kích do Đinh Núp chỉ huy.
Du kích và nhân dân Stơr tổ chức rào làng, đắp luỹ, làm bẫy đá, hầm chông, tự chế cung nỏ và nhiều loại vũ khí thô sơ khác; dùng cách đánh du kích làm thất bại mọi cuộc tiến công của quân Pháp, trở thành "pháo đài" bất khả xâm phạm, làm ngừng trệ giao thông của địch trên đường 19.
<p>Làng chiến đấu Cự Nẫm - huyện Bố Trạch - tỉnh Quảng Bình</p>
Làng chiến đấu do nhân dân xã Cự Nẫm (huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình) xây dựng trong kháng chiến chống Pháp.
Được các cơ quan đảng và chính quyền của tỉnh, huyện chỉ đạo, giúp đỡ, từ cuối năm 1946, dân quân du kích và nhân dân Cự Nẫm chặt tre rào làng, lập thành ba tuyến phòng thủ, bên trong có hệ thống hào giao thông và hàng nghìn hầm hố các loại; tháng 4/1947-3/1948, bằng vũ khí thô sơ và cách đánh du kích, đánh bại 26 cuộc càn quét của quân Pháp, diệt hơn 150 địch, bảo vệ làng, góp phần đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích vùng sau lưng địch.
Làng chiến đấu tiêu biểu của Quảng Bình và Liên khu 4, được chủ tịch Hồ Chí Minh tặng bằng khen; trong kháng chiến chống Mỹ, Cự Nẫm được nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1996.