<p>Tiến công chiến lược</p>
Là loại hình cơ bản của hoạt động tác chiến chiến lược của lực lượng vũ trang, được sử dụng nhằm đạt những mục đích chính trị - Quân sự có ý nghĩa chiến lược trong chiến tranh.
Được thực hiện bằng cách tiến hành các chiến dịch chiến lược và các hình thức hoạt động tác chiến khác, diễn ra trên một hoặc một số chiến trường tác chiến (hướng chiến lược) theo một ý định và kế hoạch thống nhất của Bộ Tổng tư lệnh.
Để đạt được mục đích, tiến công chiến lược phải đập tan được các tập đoàn chiến lược của lực lượng vũ trang đối phương, đôi khi còn loại khỏi vòng chiến một hoặc một số quốc gia và chiếm các vùng xung yếu chiến lược của đối phương, làm thay đổi cục diện chiến tranh hoặc kết thúc chiến tranh. Tiến công chiến lược có thể diễn ra thành giai đoạn quyết định của tiến trình chiến tranh và có thể kết thúc bằng cuộc tổng tiến công.
Trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam, tiến công chiến lược thường được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng giành quyền làm chủ trên quy mô lớn.
Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Chiến dịch quyết chiến chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm tiêu diệt quân Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giành thắng lợi quyết định trong chiến cục Đông Xuân (1953-1954). Chiến dịch do Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ chiến dịch, Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng, Lê Liêm làm Chủ nhiệm chính trị, Đặng Kim Giang làm Chủ nhiệm cung cấp.
Bộ chính trị Trung ương Đảng họp quyết định chủ trương mở chiến dịch Điện Biên Phủ, 6/12/1953
Lực lượng tham gia gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312 và 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351.
Lực lượng quân Pháp ở Điện Biên Phủ: 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay (trong quá trình chiến dịch được tăng viện 4 tiểu đoàn và 2 đại đội dù), tổ chức phòng ngự thành 3 phân khu, 8 trung tâm đề kháng, gồm 49 cứ điểm được trang bị hỏa lực mạnh, có 2 căn cứ hỏa lực và 2 sân bay ở Mường Thanh và Hồng Cúm.
Chiến dịch dự định bắt đầu 25/1/1954 (kế hoạch đầu tiên là 20/1/1954), theo phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh", nhưng do địch đã tăng cường binh lực và củng cố hệ thống phòng ngự vững chắc, đồng thời về phía ta, việc đưa pháo vào trận địa và công tác tổ chức hiệp đồng chiến đấu bộ binh - pháo binh chưa hoàn tất, nên Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sửa đổi kế hoạch, tiếp tục chuẩn bị mọi mặt, chuyển sang thực hiện phương châm "đánh chắc tiến chắc", dùng cách đánh vây hãm tiến công, đột phá lần lượt để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm.
Chiều 13/3/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, diễn biến qua 3 đợt.
Đợt 1 (13-17/3), ta đập tan thế trận phòng ngự vòng ngoài của địch ở phía bắc và đông bắc, mở đầu bằng trận Him Lam (13/3/1954), tiếp đó tiêu diệt cụm cứ điểm đồi Độc Lập, bao vây, bức hàng cụm cứ điểm Bản Kéo (16/3/1954), đánh bại nhiều đợt phản kích của địch.
Đợt 2 (30/3-30/4), sau hơn 10 ngày xây dựng trận địa tiến công và bao vây với hàng trăm kilômét hào giao thông, hàng ngàn công sự và ụ súng các loại, ta tiến công diệt các cứ điểm E, D1, D2, C1 trên dãy đồi phía đông và 106, 311 trên hướng tây - bắc sân bay Mường Thanh, nhưng đánh cứ điểm và các cứ điểm C2, 105 không thành công, bị địch phản kích chiếm lại nửa đồi C1. Từ 16/4 ta phát triển trận địa bao vây, tiến công, đánh lấn diệt các cứ điểm 105, 206 đào hào cắt đôi sân bay Mường Thanh, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch nhằm giành lại sân bay, kết hợp bắn tỉa và đưa pháo phòng không xuống cánh đồng Mường Thanh khống chế rồi triệt hẳn tiếp tế đường không của địch.
Đợt 3 (1-7/5), ta lần lượt đánh chiếm các điểm cao còn lại ở phía đông (C1, C2 và A1), diệt một số cứ điểm ở phía tây, tăng cường vây ép phân khu Hồng Cúm, bao vây uy hiếp SCH trung tâm, dập tắt hi vọng rút chạy của địch; 15 giờ 7/5 tổng công kích vào trung tâm Mường Thanh, bắt tướng Đờ Caxtơri và toàn bộ ban tham mưu tập đoàn cứ điểm, buộc số địch còn lại ở phân khu trung tâm phải đầu hàng, truy kích và bắt gọn bộ phận địch ở Hồng Cúm định rút chạy.
Chiến dịch Điện Biên Phủ giành toàn thắng, diệt và bắt hơn 16.200 địch (có 1 thiếu tướng, 369 sĩ quan từ đại tá đến thiếu úy), thu toàn bộ vũ khí trang bị, bắn rơi 62 máy bay. Chiến dịch Điện Biên Phủ là đòn tiến công tiêu diệt lớn nhất, điển hình nhất của quân và dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, cùng với thắng lợi trên các chiến trường khác trong Đông Xuân 1953-1954 giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơnevơ về Đông Dương (8/5-21/7/1954) đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
<p>Chuẩn bị chiến dịch</p>
Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
Tô Vĩnh Diện
(1924-1954)
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (truy tặng 1956)
Quê quán: xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa
Nhập ngũ: 1949
Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam: 1949
Khi hi sinh là khẩu đội trưởng pháo phòng không, Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3-7/5/1954), khi kéo pháo ra, đến đoạn xuống Dốc Chuối, Tô Vĩnh Diện và pháo thủ Ty xung phong cầm càng lái pháo. Khi dây tời chính bị đứt, pháo lao nhanh và khó điều khiển, pháo thủ Ty bị càng pháo đánh bật ra, Tô Vĩnh Diện vẫn bám càng, điều khiển hướng lao của pháo, bất chấp nguy hiểm lấy thân mình đẩy càng vào vách núi cho pháo dừng lại, Tô Vĩnh Diện hi sinh.
Huân chương: Quân công hạng nhì, Chiến công hạng nhất.
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 thu được của quân Pháp trong Chiến dịch Tây Bắc,1952
Đại đội 806, Trung đoàn 45 sử dụng bắn vào cứ điểm Him Lam, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 13/3/1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đèn bão</p>
Quay lại
<p>Đèn bão</p>
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh, sử dụng tại Sở chỉ huy Mường Phăng, xã Mường Phăng, thành phố Điện Biên, 1954
<p>Tô Vĩnh Diện (1924-1954)</p>
<p>Pháo mặt đất 105mm, số hiệu 14683</p>
<p>Bộ đội kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ, 1954</p>
Các chiến sĩ quân y dùng xe đạp thồ vận chuyển thuốc ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ Chiến dịch Điện biên Phủ, 1954</p>
Dân công dùng xe trâu vượt dốc chở vũ khí, lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
Dân công dùng xe quệt chở vũ khí ra mặt trận Điện Biên Phủ, 1954
<p>Dân công dùng ngựa thồ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội và dân công sử dụng xe bò vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đội thuyền nan chở bộ đội vượt sông Hồng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đoàn xe tải vượt hố bom vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
<p>Đoàn Dân công xe thồ vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Công binh Trung đoàn 151 gỡ bom bươm bướm quân Pháp trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
Công binh Trung đoàn 151 gỡ, phá bom quân Pháp ném xuống trên đường vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ đội công binh mở đường đảm bảo giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Đại đoàn 351 và dân công đốt đuốc làm đường ban đêm phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954</p>
Nữ dân công Tây Bắc mở đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, 1954
<p>Công binh Đại đoàn 351 và dân công mở đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, 1953-1954</p>
<p>Hiện vật của thực dân Pháp</p>
Thư Mắc - Đô -Nan, Cao ủy Anh và La- Ma-peo, tướng Pháp phụ trách trường Cao đẳng quân sự động viên Đờ-cát-tơ-ri ở Điện Biên Phủ ngày 25/1/1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Súng phun lửa</p>
Mỹ viện trợ cho Pháp, Tiểu đoàn 215, Trung đoàn 98, Đại đoàn 316 thu được ở đồi C2 phía Đông Mường Thanh, trong chiến dịch Điên Biên Phủ tháng 5/1954
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Mìn đe - 05</p>
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ năm 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Mìn đe - 04</p>
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ năm 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Mìn đe - 03</p>
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ năm 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Mìn đe - 02</p>
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ năm 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Mìn đe - 01</p>
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ năm 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
Mìn nhựa
Quân Pháp bố trí xung quanh tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ, 1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Súng đại liên mas</p>
Trung đoàn 36, Đại đoàn 308 thu của quân Pháp ở cứ điểm 206 trong chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 23/4/1954
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Thông tri</p>
Quay lại
<p>Thông tri</p>
Đại tá Đờ-cát-tơ-ri, Chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp, phổ biến chung cho các đơn vị về việc bảo đảm phòng ngự, cố thủ Điện Biên Phủ ngày 14/12/1953
<p>Súng phun lửa</p>
<p>Mìn đe - 05</p>
<p>Mìn đe - 04</p>
<p>Mìn đe - 03</p>
<p>Mìn đe - 02</p>
<p>Mìn đe - 01</p>
Mìn nhựa
<p>Súng đại liên mas</p>
<p>Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Sở Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ở hang Huổi He, xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, 27/1/1954</p>
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh của Chiến dịch phổ biến phương châm "đánh chắc tiến chắc" tại Sở Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ở hang Huổi He, xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, 27/1/1954
Bộ chỉ huy mặt trận được sự chỉ đạo của Trung ương căn cứ vào tình hình thực tiễn đã kịp thời thay đổi kế hoạch đánh Điện Biên Phủ trong 3 đêm 2 ngày bằng một kế hoạch mới theo phương châm "đánh chắc tiến chắc", nhằm phát huy tối đa ưu thế của ta hạn chế tối đa sức mạnh của địch.
Quay lại
<p>Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013)</p>
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng 1946 - 8/1947; 8/1948 - 1980
Năm sinh: 1911
Quê quán: xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình
Tham gia cách mạng: 1925
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1940
Cấp bậc cao nhất: Đại tướng (1948)
Chức vụ cao nhất: Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam (1946-1975), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) (1946-1947; 1948-1980)
Quá trình hoạt động cách mạng:
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, nhà chỉ huy và nhà lí luận quân sự xuất sắc của Việt Nam. Tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm: năm 1925 tham gia lãnh đạo phong trào học sinh Huế. Năm 1929 tham gia cải tổ Tân Việt Cách mạng Đảng thành Đông Duơng Cộng sản Liên đoàn. Năm 1930, bị Thực dân Pháp bắt giam. Từ năm 1936 đến 1939, tham gia Phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, tham gia sáng lập Báo “Lao động”, “Tiếng nói chúng ta”; biên tập Báo “Tin tức”, “Dân chúng”. Chủ tịch Uỷ ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương Đại hội. Năm 1940, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau tháng 5/1941, xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức Việt Minh ở Cao Bằng; tham gia khởi nghĩa vũ trang ở Căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng. Năm 1942, phụ trách Ban Xung phong Nam tiến, dùng hoạt động tuyên truyền vũ trang mở đường liên lạc giữa miền núi với đồng bằng Bắc Bộ. Tháng 12/1944, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân; chỉ huy đội đánh thắng hai trận đầu ở Phai Khắt (25/12/1944) và Nà Ngần (26/12/1944). Ngày 4/8/1945 đồng chí là Ủy viên Uỷ ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ, Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Thống nhất (Việt Nam Giải phóng quân). Đồng chí đuợc Hội nghị Toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương cử vào Ban Chấp hành Trung ương và Ủy viên thường vụ Ban Chấp hành, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc, ủy viên Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Lâm thời, Chủ tịch Quân sự Uỷ viên Hội trong Chính phủ Liên hiệp, Phó trưởng đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán với Pháp tại Hội nghị trù bị Đà Lạt. Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá II - VI; Uỷ viên Bộ Chính trị các khoá II - IV. Bí thư Tổng Quân uỷ, sau này là Quân uỷ Trung ương (1946 - 77). Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1946 - 1947), Đại tướng (1948), Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân Việt Nam, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam (đến 1975); uỷ viên Hội đồng Quốc phòng (1948). Trong Kháng chiến chống Pháp, trực tiếp chỉ huy các chiến dịch lớn, đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). Trong Kháng chiến chống Mĩ, cùng Bộ Chính trị, chỉ đạo nhiều chiến dịch lớn, đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh, chỉ đạo chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng Không quân và Hải quân của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1955 - 1980). Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1981 - 1991). Đại biểu Quốc hội các khoá I - VII.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nhiều tác phẩm quân sự có giá trị nghiên cứu cao như: "Khu giải phóng" (1946), "Đội quân giải phóng" (1947), "Chiến tranh giải phóng và quân đội nhân dân, ba giai đoạn chiến lược" (1950), "Điện Biên Phủ" (1964), "Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng" (1970), "Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân" (1972), "Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc" (1979), "Tư tưởng Hồ Chí Minh và Con đường cách mạng Việt Nam" (2000)…
Phần thưởng cao quí
Với những đóng góp cực kỳ to lớn cho cách mạng Việt Nam, Đại tướng đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Sao vàng, hai Huân chương Hồ Chí Minh, hai Huân chương Quân công hạng nhất, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng, và nhiều huân chương, phần thưởng cao quý khác…
<p>Các trận Him Lam và Độc lập</p>
Kế hoạch tác chiến số 1 Bộ Tư lệnh Đại đoàn 312 ra ngày 5/3/1954 và bổ sung ngày 11/3/1954 về tiêu diệt quân Pháp ở cụm cứ điểm Him Lam tháng 3/1954.
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
Đồng chí Vũ Đình Công, tổ quân báo Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 sử dụng cắt lớp hàng rào đầu tiên trong trận tấn công cứ điểm đồi Độc Lập, 14/3/1954
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
Ban chỉ huy Trung đoàn 174, Đại đoàn 316 sử dụng truyền lệnh tấn công cứ điểm Độc Lập đêm, 14/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
Chiến sĩ Trung đoàn 165, Đại đoàn 312 sử dụng đánh mở cửa tấn công cứ điểm Độc Lập, 14/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Đạn phóng</p>
Trung đoàn 165, Đại đoàn 312 đã sử dụng chiến đấu tấn công cứ điểm Độc lập, 14/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Lựu đạn</p>
Đại đội 5,Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 sử dụng chiến đấu ở cứ điểm Độc Lập, 14/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
Đại đoàn 312 sử dụng để nghiên cứu xây dựng các mũi tiến công tiêu diệt quân Pháp tại cụm cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo, 14/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Quyết tâm thư</p>
Quay lại
<p>Quyết tâm thư</p>
Đồng chí Hà Vân Khanh, chiến sĩ Trung đoàn 141, Đại đoàn 312 gửi Hồ Chủ tịch trước giờ nổ súng tấn công cứ điểm Him Lam, 13/3/1954
<p>Kéo cắt dây thép gai</p>
<p>Máy thông tin RPC - 10</p>
<p>Đoạn ống bộc phá</p>
<p>Đạn phóng</p>
<p>Lựu đạn</p>
<p>Sơ đồ cum cứ điểm Độc lập</p>
<p>32 Anh hùng Điện Biên Phủ</p>
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
Nguyễn Tiến Thụ
(1934)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Nội Duệ - Tiên Du – Bắc Ninh
Nhập ngũ: 1949
Nguyên Đội phó Đội phá bom, Đội 40 Thanh niên xung phong Điện Biên Phủ, đảng viên
Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dũng cảm quên mình cứu hàng, có nhiều sáng kiến mở đường nhanh, tìm ra nguyên lý phá các loại bom, đảm bảo giao thông thông suốt ở những "tọa độ lửa" phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
Tuyên dương: 23/7/2014
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Lộc Văn Trọng</p>
Lộc Văn Trọng
(1905 - 1979)
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Chu Thảo - Quảng Yên - Cao Bằng
Nhập ngũ: 1950
Khi tuyên dương anh hùng là Trung đội phó lái xe ô tô thuộc Cục Vận tải - Tổng cục Hậu cần
Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lái xe tải phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ 1954
Tuyên dương: 31/8/1955
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
Bí danh: Lê Đình Cường
(1930)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Trường Lộc - Can Lộc - Hà Tĩnh.
Nhập ngũ: 1945
Nguyên Đội trưởng Đội phá bom, Đại đội 293, Đội Thanh niên xung phong 34 Điện Biên Phủ, đảng viên.
Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dũng cảm quên mình cứu hàng, có nhiều sáng kiến mở đường nhanh, rà phá bom thông đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tuyên dương: 23/7/2014
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Trần Văn Cam</p>
Trần Văn Cam
(1936)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Chí Kiên - Thanh Ba - Phú Thọ.
Nhập ngũ: 1951
Nguyên Trung đội Trưởng Trung đội phá bom, Đại đội 407, Đội Thanh niên xung phong 40, đảng viên
Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dũng cảm quên mình cứu hàng, mở đường đảm bảo giao thông, phá bom, vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
Truy tặng: 23/7/2014
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Cao Xuân Thọ</p>
Cao Xuân Thọ
(1926)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Hoằng Giang – Hoằng Hóa - Thanh Hóa.
Nhập ngũ: 1947
Nguyên Đội trưởng Đội phá bom, Đại đội 404, Đội Thanh niên xung phong 40, đảng viên
Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dũng cảm quên mình cứu hàng, có nhiều sáng kiến mở đường nhanh, vừa chỉ huy vừa trực tiếp rà phá bom thông đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
Tuyên dương ngày 23/7/2014
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Phan Tư</p>
Phan Tư
(1931)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Thọ Thành - Yên Thành - Nghệ An
Nhập ngũ tháng 6/1951, đảng viên
Khi tuyên dương anh hùng là Đại đội trưởng Đại đội 555 thuộc Cục Công binh
Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chỉ huy bộ đội phá kho thóc của địch trên sông Nậm Na, bảo đảm vũ khí phục vụ chiến dịch
Tuyên dương: 31/8/1955
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
Nguyễn Văn Ty
(1931-1967)
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (trao tặng 1955)
Quê quán: Xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang
Nhập ngũ: 1949
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1951
Khi tuyên dương Ah là đại đội trưởng bộ binh, Trung đoàn 88, Đại đoàn 308
Trong kháng chiến chống Pháp, chiến đấu ở chiến trường Bắc Bộ, tham gia 7 chiến dịch lớn đánh 35 trận. Trong chiến dịch Biên Giới (16/9-14/10/1950), khi xung phong lên đánh chiếm điểm cao, bị thương vào chân phải, máu chảy nhiều, đã lấy chân trái giẫm đè lên vết thương cho máu đỡ chảy để tiếp tục chiến đấu, ném lựu đạn diệt 5 địch, sau đó mới băng bó vết thương. Trận Tu Vũ (10-11/12/1951) (chiến dịch Hòa Bình, 1951), tổ trưởng liên lạc, khi trận đánh gay go ác liệt cả tổ bị thương vong, Nguyễn Văn Ty làm thay nhiệm vụ của 4 người, dũng cảm lên xuống cửa mở 18 lần, dưới làn đạn địch, truyền đạt mệnh lệnh chính xác kịp thời góp phần cùng đơn vị đánh thắng. Trận đồi Độc Lập (15/3/1954), phụ trách tiểu đội đánh bộc phá, trời tối địch tập trung hỏa lực bắn dữ dội về hướng cửa mở, tiểu đội bạn đánh chệch hướng, Nguyễn Văn Ty dẫn tiểu đội vào thay, đánh quả bộc phá đầu, sau đó chỉ huy tiểu đội đánh liên tục 28 quả, phá 7 lớp rào, đến hàng rào cuối cùng, Nguyễn Văn Ty bị thương vào mắt trái vẫn cố dùng tay căng mắt phải để quan sát, chỉ huy tiểu đội phá thông cửa mở để lực lượng đột kích tiêu diệt cứ điểm địch. Trong kháng chiến chống Mỹ, chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ, khi hi sinh là trung đoàn trưởng bộ binh.
Huân chương: Chiến công (hạng nhất, hạng nhì, hạng ba)
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Lâm Viết Hữu</p>
Lâm Viết Hữu
(1926)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Đình Xuyên - Gia Lâm - Hà Nội
Nhập ngũ: 1946
Nguyên Đại đội Trưởng Đại đội 674, Tiểu đoàn 251, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, đảng viên
Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chỉ huy bộ đội trong trận đánh tại cứ điểm A, góp gần cắt đường tiếp viện của thực dân Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ
Tuyên dương: 22/12/2009
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Chu Văn Khâm</p>
Chu Văn Khâm
(1925)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Mỹ Đức – Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Nhập ngũ: 5/1947, đảng viên
Khi tuyên dương anh hùng là Trung đội phó Công binh, Đại đội 56, Tiểu đoàn 206 Cục Vận tải - Tổng Cục Hậu Cần
Thành tích: Trong 1 tháng chỉ huy Tiểu đội phá 35 quả bom nổ chậm. Riêng anh tự tay phá gỡ được 18 quả, có một số quả nguy hiểm, anh luôn gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu giúp đỡ đồng đội, được anh em trong đơn vị cảm mến
Tuyên dương: 31/8/1955
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
Nguyễn Phú Xuyên Khung
(1924)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Ngọc Thụy - quận Long Biên - TP Hà Nội
Nhập ngũ: 1945
Nguyên Trung đoàn Trưởng Trung đoàn Công binh 151, Đại đoàn 351 (nay là Lữ đoàn 229 Binh chủng Công binh), đảng viên
Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chỉ huy đơn vị đào 1 đường hầm dài 47m trong 15 ngày đêm, đặt khối thuốc nổ 960kg phá hầm ngầm cố thủ của địch trên đỉnh đồi A1 ngày 7/5/1954, mở thông cánh cửa vào khu trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ
Truy tặng: 21/10/2014
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
Nguyễn Văn Bạch
(1924)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Quất Lưu - Tam Đảo (nay là xã Thanh Trù - thành phố Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc)
Nhập ngũ: 1949
Nguyên Tiểu đội Trưởng thuộc Đại đội Công binh M83, Trung đoàn Công binh 151, Đại đoàn 351, đảng viên
Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cùng đơn vị đào hầm ngầm, đặt khối thuốc nổ trọng lượng 960kg để đánh sập hệ thống phòng ngự của địch tại Đồi A1 ngày 7/5/1954
Truy tặng: 23/2/2010
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
Liệt sĩ Bế Văn Đàn
(1931-1953)
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (truy tặng 1955)
Dân tộc: Tày
Quê quán: Xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa (nay thuộc huyện Quảng Hòa), tỉnh Cao Bằng
Nhập ngũ: 1949
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1953
Khi hi sinh là tiểu đội phó thuộc Đại đoàn 316. Trận Mường Pồn (Lai Châu, 12/1953), khi quân địch phản kích đợt ba, đại đội chỉ còn 17 người, tình thế rất khẩn trương, một khẩu trung liên không bắn được do xạ thủ hi sinh, còn khẩu trung liên của Chu Văn Pù không bắn được vì chưa tìm được chỗ đặt súng. Không do dự, Bế Văn Đàn rời khỏi công sự, lao đến cầm hai chân trung liên đặt lên vai mình nói như ra lệnh: "kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi". Khẩu trung liên nhả đạn về phía quân địch, đẩy lùi đợt phản kích. Bế Văn Đàn mình đầy thương tích, đồng đội kịp thời cứu chữa và được kết nạp Đảng tại trận địa trước lúc hi sinh
Huân chương: Quân công hạng nhì, Chiến công hạng nhất
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
Liệt sĩ Hà Văn Nọa
(1928)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Vĩnh Hòa - Ninh Quang – Hải Dương
Nhập ngũ: 2/1947
Khi tuyên dương anh hùng là Đại đội trưởng Đại đội 243, Tiểu Đoàn 11, Trung đội 141, Đại đoàn 312. Thành tích: Chỉ huy đơn vị chiến đấu dũng cảm trong trận đánh cứ điểm Him Lam, E1, D2, lập "chốt" chặn dịch bên cạnh đường A41 và hy sinh anh dũng
Tuyên dương: 16/12/2004
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
Hoàng Đăng Vinh
(1934)
Quê quán: Xã Tân Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên
Nhập ngũ: 1952
Đại tá: 1987
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1954
Là người dẫn đầu tổ chiến đấu xông vào hầm bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt tướng Đờ Caxtơri đầu hàng lúc 17 giờ 30 phút 7/5/1954. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3-7/5/1954) là tiểu đội phó thuộc Trung đoàn 209, Sư đoàn 312, tham gia từ trận mở màn Him Lam cho đến tổng công kích kết thúc chiến dịch. Chiều 7/5/1954 dẫn đầu tổ chiến đấu cùng đại đội vượt cầu Mường Thanh, theo giao thông hào tiến vào khu trung tâm tập đoàn cứ điểm, là người đầu tiên xông vào hầm tướng Đờ Cát-xtơ-ri, cùng tổ chiến đấu và đại đội trưởng Tạ Quốc Luật bắt Đờ Cát-xtơ-ri, buộc quân địch tại Điện Biên Phủ hạ vũ khí đầu hàng. Trong kháng chiến chống Mỹ, 1959-74 chính trị viên đại đội, trợ lý chính trị Trung đoàn 249, trưởng ban tuyên huấn Trung đoàn 239. Năm 1975-89 giáo viên chính trị; chủ nhiệm chính trị Trường sĩ quan công binh; chủ nhiệm chính trị rồi phó lữ đoàn trưởng về chính trị Lữ đoàn 239; phó hiệu trưởng chính trị Trường hậu cần công binh và Trường sĩ quan công binh (cơ sở 2).
Huân chương: Quân công hạng ba, 2 Chiến công hạng ba
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Chu Văn Mùi</p>
Chu Văn Mùi
(1929)
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (năm 1955)
Quê quán: Xã Thượng Lan, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang
Nhập ngũ: 1949
Đại tá: 1982
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1954
Khi tuyên dương Anh hùng là trung đội trưởng thông tin thuộc Trung đoàn 102, Đại đoàn 308. Trong kháng chiến chống Pháp (1949-1954), tham gia 7 chiến dịch lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên cương vị pháo thủ, chiến sĩ xung kích, tiểu đội phó súng cối, tiểu đội trưởng thông tin. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, tham gia trận đồi A1 (30/3-7/5/1954), cùng Đàm Minh Đức được lệnh ở lại trong căn hầm nhỏ phía đông bắc đồi A1, nằm giữa vòng vây của địch, suốt hai ngày đói, khát, vừa chiến đấu vừa liên lạc với cấp trên và gọi pháo liên tục bắn đẩy lùi các đợt tiến công của địch, bảo vệ thương binh, giữ vững trận địa. Trận phòng ngự trên đồi 311B suốt bốn ngày đêm đơn vị phải nằm dưới hầm, trời mưa, hầm sập, nước ngập, bom đạn địch bắn dữ dội, Chu Văn Mùi vẫn bảo vệ được máy, giữ vững liên lạc với sở chỉ huy, phục vụ chiến đấu thắng lợi.
Huân chương: Quân công hạng ba
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
Liệt sĩ Hoàng Văn Nô
(1932)
Quê quán: Xã Ngọc Khuê - Trùng Khánh - Cao Bằng
Khi tuyên dương anh hùng là chiến sỹ Đại đội 925, Tiểu đoàn 225, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316
Thành tích: Dùng lê chiến đấu đánh chặn cuộc hành quân của Tiểu đoàn dù số 1 của Pháp ở khu vực Đồi Xanh, tại Cao điểm 781 phía Đông Điện Biên Phủ. Anh đã hy sinh anh dũng để giữ vững trận địa
Tuyên dương: 28/4/2000
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Đặng Đức Song</p>
Đặng Đức Song
(1934)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Cộng Hòa - Nam Thanh - Hải Hưng (Hải Dương)
Nhập ngũ: 4/1952, đảng viên
Khi tuyên dương anh hùng là Trung đội trưởng Bộ binh Đại đội 5, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 98, Đại đoàn 316
Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chỉ huy bộ đội chiến đấu tại đồi Xanh, đồi C1, đồi Mâm Xôi
Tuyên dương: 7/5/1956
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
Lưu Viết Thoảng
(1926)
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (1956)
Quê quán: Xã Cảnh Thụy, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang
Nhập ngũ: 1949
Đại tá: 1988
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1952
Khi tuyên dương Anh hùng là chính trị viên phó đại đội thuộc Đoàn 151, Cục công binh. Năm 1949-1954 tham gia nhiều chiến dịch. Khi chuẩn bị chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), phụ trách tổ tháo bom, Lưu Viết Thoảng tự tìm hiểu tháo một số loại bom mới. Trong thời gian ngắn cùng tổ tháo 18 quả, lấy 3.525kg thuốc nổ cung cấp cho đơn vị phá đá mở đường. Tháng 4/1954 phụ trách tổ đào đường hầm vào cứ điểm đồi A1. Trong 16 ngày đêm cùng đồng đội vượt mọi khó khăn, kiên trì dũng cảm đào 43m đường hầm (cửa hầm chỉ cách địch hơn 10m) để đưa khoảng 1.000kg thuốc nổ vào; 21 giờ ngày 6/5/1954 khối thuốc nổ làm rung chuyển đồi A1 (đánh sập các ụ súng phòng ngự vòng ngoài, một lô cốt phụ và nửa lô cốt chính), cứ điểm bị tê liệt, tạo thuận lợi cho bộ đội xung phong diệt địch, làm chủ cứ điểm.
Huân chương: Quân công hạng ba, 2 Chiến công hạng ba
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
Nguyễn Văn Thuần
(1916-1979)
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (trao tặng 1955)
Quê quán: Xã Cộng Hoà, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh
Nhập ngũ: 1945
Thượng tá: 1965; Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Khi tuyên dương Anh hùng là trung đoàn phó Trung đoàn 209, Sư đoàn 312. Trong kháng chiến chống Pháp, trưởng thành từ chiến sĩ đến cán bộ trung đoàn, đánh 30 trận, chỉ huy đơn vị diệt gần 1.000 và bắt sống hàng trăm địch, Nguyễn Văn Thuần diệt gần 200, phần lớn là lính Âu - Phi. Trận chống càn ở Lạc Điền (Hải Dương, 1947), dùng trung liên diệt 1 trung đội Pháp (36 lính), tạo thời cơ cho đơn vị đánh bại cuộc càn của địch. Trận Phủ Thông (1948), dẫn đầu tổ chiến đấu đánh giáp lá cà với địch. Trận Phố Ràng (1949), dẫn đầu tiểu đội chiếm cửa mở rồi thọc sâu chia cắt địch. Trận đồn Ba Huyên (1/1951), chỉ huy trung đội đánh lui cuộc phản kích của địch, chiếm lại 3 lô cốt quan trọng...
Huân chương: Quân công hạng ba, Chiến công (2 hạng nhất, 1 hạng nhì)...
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Đình Văn Mẫu</p>
Đình Văn Mẫu
(1922)
Dân tộc: Mường
Quê quán: Xã Phúc Khánh - Yên Lập - Vĩnh Phú
Nhập ngũ: 12/1949; đảng viên
Khi tuyên dương anh hùng là Tiểu đội trường nuôi quản thuộc Tiểu đoàn 209, Đại đoàn 312
Thành tích: Khắc phục khó khăn, mưu trí dùng cảm, vượt qua bom đạn, bảo đảm ăn uống cho bộ đội phòng ngự trên đồi C1, D1, D2
Tuyên dương: 7/5/1956
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Lê Văn Dỵ </p>
Lê Văn Dỵ
(1926)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Đồng Tâm – Yên Lãng – Vĩnh Phúc
Nhập ngũ: 1954
Khi tuyên dương anh hùng là Đại đội trưởng Đại đội 811, Tiểu đoàn 888 Trung đoàn 176, Đại đoàn 316 (nay là Trung đoàn 174, Sư đoàn 316. Thành tích: Chỉ huy đại đội 811 độc lập phòng ngự và tiến công tiêu diệt đồi C1 ở chiến trường Điện Biên Phủ (1954)
Truy tặng anh hùng: 8/7/2008
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Tạ Quốc Luật</p>
Tạ Quốc Luật
(1925)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Thụy Hải - Thái Thụy – Thái Bình
Khi tuyên dương anh hùng là Đại đổi trưởng Đại đội 306, Tiểu đoàn 13, Trung đoàn 209, Đại đoàn 312
Thành tích: Tham gia đánh chiếm cứ điểm Him Lam, C1, đồi E, 105, 507, 509 và tham gia bắt sống toàn bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cùng tướng Đờ - cát- tơ – ri (7/5/1954)
Tuyên dương: 16/12/2004
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
Hoàng Khắc Dược
(1917)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Làng Mai Xá, huyện Mỹ Lộc, thành phố Nam Định tỉnh Nam Hà (cũ)
Nhập ngũ: 1946, đảng viên
Khi tuyên dương anh hùng là Tiểu đội trưởng nuôi quân thuộc Trung đoàn 66, Đại đoàn 304
Thành tích: Luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác nuôi quân, dù gặp nhiều khó khăn thiếu thốn, anh vẫn tìm mọi cách khắc phục đảm bảo nuôi dưỡng bộ đội chu đáo. Trong chiến dịch Tây Bắc, Trung Lào 1953 – 1954, đồng chí thường gánh nặng 35 - 40kg thực phẩm chạy theo đơn vị, đảm bảo cho bộ đội ăn no chiến đấu thắng lợi
Tuyên dương: 31/8/1955
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Phùng Văn Khầu</p>
Phùng Văn Khầu
(1930-2021)
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (1955)
Dân tộc: Nùng
Quê quán: Xã Đức Hồng, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng
Nhập ngũ: 1949
Đại tá: 1983
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1950
Khi tuyên dương Anh hùng là trung đội trưởng pháo binh, Đại đội 755 thuộc Đại đoàn 351. Tham gia 7 chiến dịch lớn; trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), chỉ huy Khẩu đội sơn pháo 75mm, bố trí trên đồi E khống chế khu trung tâm Mường Thanh, chi viện cho bộ binh chiến đấu ở các điểm cao 203, 207, 507 và đồi C dưới bom đạn ác liệt của quân Pháp, trụ vững 36 ngày đêm, có lúc bị sức ép ngất đi, tỉnh dậy tiếp tục chiến đấu, cùng khẩu đội diệt 5 khẩu pháo 105mm, 6 đại liên, 1 lô cốt, 1 kho đạn, diệt và làm bị thương hàng trăm địch
Huân chương: Quân công hạng ba, Chiến công (1 hạng nhì, 2 hạng ba)
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện
(1924-1954)
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (truy tặng 1956)
Quê quán: Xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa
Nhập ngũ 1949
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1949
Khi hi sinh là khẩu đội trưởng pháo phòng không, Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3-7/5/1954), khi kéo pháo ra, đến đoạn xuống Dốc Chuối, Tô Vĩnh Diện và pháo thủ Ty xung phong cầm càng lái pháo. Khi dây tời chính bị đứt, pháo lao nhanh và khó điều khiển, pháo thủ Ty bị càng pháo đánh bật ra, Tô Vĩnh Diện vẫn bám càng, điều khiển hướng lao của pháo, bất chấp nguy hiểm lấy thân mình đẩy càng vào vách núi cho pháo dừng lại, Tô Vĩnh Diện hy sinh
Huân chương: Quân công hạng nhì, Chiến công hạng nhất
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Trần Đình Hùng</p>
Trần Đình Hùng
(1931)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Đại Đồng – Yên Dũng – Bắc Hà (cũ)
Nhập ngũ: 7/1950; đảng viên
Khi tuyên dương anh hùng là Trung đội trưởng Pháo DKZ thuộc Trung đoàn 6, Đại đoàn 308. Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu phòng ngự đồi 106 và anh dũng dùng thân thay chân súng bị gãy chiến đấu diệt địch ở vị trí đồi 311B
Tuyên dương: 7/5/1956
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Bùi Đình Cư</p>
Bùi Đình Cư
(1927-1988)
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (trao tặng 1955)
Quê quán: Xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
Nhập ngũ: 1949
Đại tá: 1982
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1952
Khi tuyên dương Anh hùng là khẩu đội trưởng pháo binh, Trung đoàn 675, Đại đoàn 351. Trong kháng chiến chống Pháp, đã tham gia 9 chiến dịch lớn, trong trận Yên Mô Thượng (chiến dịch Quang Trung, 1951), Bùi Đình Cư dũng cảm vào gần lô cốt địch, dùng đèn pin chiếu sáng lỗ châu mai cho pháo ngắm bắn trực tiếp tiêu diệt mục tiêu. Trận Tu Vũ (chiến dịch Hòa Bình, 1952), Bùi Đình Cư vác nòng súng cối nặng 101kg di chuyển tới vị trí mới cách xa hơn 200m dưới hỏa lực của địch. Trận Him Lam mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, Bùi Đình Cư một mình vác nòng súng cối 120mm đi gần 3km dưới giao thông hào để chiếm lĩnh trận địa đúng giờ quy định; trận đánh đồi Độc Lập, sau khi bộ binh làm chủ trận địa, đã chỉ huy tiểu đội tháo và chuyển được 3 khẩu súng cối 120mm chiến lợi phẩm. Trong kháng chiến chống Mỹ, 1966-1974 chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, giữ các chức vụ: phó chủ nhiệm chính trị các trung đoàn pháo binh 16 và 38; phó chính ủy rồi chính ủy Trung đoàn trinh sát pháo binh 97.
Huân chương: Quân công hạng ba, Chiến công (hạng nhì, hạng ba)
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Đặng Đình Hổ</p>
Đặng Đình Hổ
(1925)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Thanh Bình – Thanh Chương – Nghệ An
Nhập ngũ: 1950; đảng viên
Khi tuyên dương anh hùng là Tiểu đoàn phó Bộ binh thuộc Đại đoàn 304
Thành tích: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chỉ huy bộ đội mở cửa đánh vào đồi C
Tuyên dương: 7/5/1956
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Dương Quảng Châu</p>
Tên thật: Dương Ngọc Chiến
(1929)
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Quảng Châu – Phú Tiên – Hải Hưng (Nay là tỉnh Hưng Yên)
Nhập ngũ: 5/1948; đảng viên
Khi tuyên dương anh hùng là Trung đội phó Đại đội quân báo, Trung đoàn 36, Đại đoàn 308
Thành tích: Trong khi chuẩn bị chiến trường đồng chí đã mưu trí dũng cảm bắt tù binh, thu vũ khí. Vào chiến dịch, tuy bị thương nhưng vẫn động viên bộ đội chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ
Tuyên dương: 7/5/1956
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Phan Đình Giót</p>
Phan Đình Giót
(1922-1954)
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (truy tặng 1955)
Quê quán: Xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh
Nhập ngũ: 1950
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1952
Khi hi sinh là tiểu đội phó thuộc Đại đội 58, Tiểu đoàn 428, Trung đoàn 141, Sư đoàn 312. Trong trận Him Lam ngày 13/3/1954 (chiến dịch Điện Biên Phủ), khi Phan Đình Giót phá hàng rào cuối cùng thì bị thương, lực lượng xung kích của Tiểu đoàn 428 xung phong vào cứ điểm, bị địch trong lô cốt bắn cản dữ dội. Phan Đình Giót nhanh chóng trườn lên dùng tiểu liên, lựu đạn diệt hỏa điểm địch, đạn hết, hỏa điểm thứ 3 vẫn chưa bị diệt, Phan Đình Giót liền lao cả thân mình lấp lỗ châu mai, tạo điều kiện cho đơn vị xông lên tiêu diệt cứ điểm Him Lam.
Huân chương: Quân công hạng nhì
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Trần Can</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Trần Can</p>
Trần Can
(1931-1954)
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (truy tặng 1956)
Quê quán: Xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An; nhập ngũ 1951
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: 1953
Khi hi sinh là đại đội phó thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312. Trong kháng chiến chống Pháp, tham gia đánh trận Bản Hoa (chiến dịch Tây Bắc, 1952), dẫn đầu tổ ba người vượt qua làn đạn dày đặc của địch, dùng thủ pháo diệt 3 ụ súng và toàn bộ địch trong Sở chỉ huy. Trận Him Lam (13/3/1954), trận mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần Can dẫn đầu tiểu đội đánh chiếm sở chỉ huy, là người đầu tiên trong chiến dịch cắm cờ "Quyết chiến quyết thắng" lên nóc lô cốt địch, sau đó chỉ huy tiểu đội diệt 25 địch trong hầm ngầm. Trận đánh ở điểm cao 507, chỉ huy tiểu đội đánh chiếm mỏm cột cờ, giằng co quyết liệt từng tấc đất với địch. Khi cả ban chỉ huy đại đội bị thương vong, Trần Can bị thương, vẫn chủ động chỉ huy đại đội đánh bại nhiều đợt phản kích của địch, giữ vững trận địa bàn đạp, tạo thế cho đơn vị tiến vào trung tâm Mường Thanh, tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sáng 7/5/1954 Trần Can hy sinh.
Huân chương: Quân công (hạng nhì, hạng ba), 2 Chiến công hạng nhất
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Quay lại
<p>Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo</p>
Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Bảo
(1927-1954)
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (truy tặng 1995)
Quê quán: Xã Yên Mạo, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình
Nhập ngũ: 1945
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Khi hi sinh là tiểu đoàn phó Tiểu đoàn trinh sát 426, trực thuộc Bộ Tổng tham mưu. Tháng 3/1949 chỉ huy đại đội phục kích đánh giao thông ở Điền Xá diệt 4 xe, bắt 4 địch. Tháng 8/1949 trong chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn (10/6-10/1949) (Quảng Tây, Trung Quốc), chỉ huy đại đội tập kích vào đội hình quân Tưởng Giới Thạch, bắt 50 địch (có một tiểu đoàn trưởng). Tháng 5/1950 trong trận đánh quân tiếp viện của địch từ Thất Khê lên Đông Khê, chỉ huy đại đội chặn đánh các cuộc tiến công của địch buộc chúng phải rút về Thất Khê. Tháng 9/1951 chỉ huy đại đội cùng tiểu đoàn Hoà Sở tiêu diệt đại đội Com-măng-đô 14 của Pháp tại Kim Anh (Vĩnh Phúc), sau đó chỉ huy đại đội tiến đánh vùng địch hậu tỉnh Vĩnh Phúc, bắt nhiều tù binh, tề điệp, ngụy quyền phản động và tham gia chiến dịch Tây Bắc. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3-7/5/1954), tiểu đoàn phó, trực tiếp chỉ huy Đại đội trinh sát 62 tiềm nhập vị trí đóng quân của địch thu một hòm tài liệu, trong đó có tập bản đồ 1/25.000 toàn bộ khu vực Điện Biên Phủ, phục vụ kịp thời cho chiến dịch. Đêm ngày 30/3/1954 Nguyễn Ngọc Bảo dẫn đầu một tổ trinh sát tiềm nhập xác định vị trí hầm ngầm địch cố thủ đồi A1 để công binh đào đường hầm, đặt 1.000kg thuốc nổ tiêu diệt cứ điểm đồi A1.
Huân chương: Quân công hạng ba
<p>Nguyễn Tiến Thụ</p>
<p>Lộc Văn Trọng</p>
<p>Trịnh Văn Huyền</p>
<p>Trần Văn Cam</p>
<p>Cao Xuân Thọ</p>
<p>Phan Tư</p>
<p>Nguyễn Văn Ty</p>
<p>Lâm Viết Hữu</p>
<p>Chu Văn Khâm</p>
<p>Nguyễn Phú Xuyên Khung</p>
<p>Nguyễn Văn Bạch</p>
<p>Liệt sĩ Bế Văn Đàn</p>
<p>Liệt sĩ Hà Văn Nọa</p>
<p>Hoàng Đăng Vinh</p>
<p>Chu Văn Mùi</p>
<p>Liệt sĩ Hoàng Văn Nô</p>
<p>Đặng Đức Song</p>
<p>Lưu Viết Thoảng</p>
<p>Nguyễn Văn Thuần</p>
<p>Đình Văn Mẫu</p>
<p>Lê Văn Dỵ </p>
<p>Tạ Quốc Luật</p>
<p>Hoàng Khắc Dược</p>
<p>Phùng Văn Khầu</p>
<p>Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện</p>
<p>Trần Đình Hùng</p>
<p>Bùi Đình Cư</p>
<p>Đặng Đình Hổ</p>
<p>Dương Quảng Châu</p>
<p>Phan Đình Giót</p>
<p>Trần Can</p>
Mừng chiến thắng
Sau 56 ngày đêm chiến đấu với tài thao lược và lòng dũng cảm của từng cán bộ chiến sĩ, sự chi viện hết lòng hết sức của hậu phương, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chỉ huy chiến dịch, đứng đầu là Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ 16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 62 máy bay các loại, thu toàn bộ vũ khí quân trang quân dụng.
Pháp buộc phải ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" là một trong những chiến công oanh liệt nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Diễu binh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh chúc mừng các chiến sỹ pháo cao xạ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Bộ đội và nhân dân rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 5/1954
Niềm vui chiến thắng, 13/5/1954
Đại tướng Võ nguyên Giáp trao cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch cho các đơn vị lập công xuất sắc ở Điện Biên Phủ, 13/5/1954
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" cho các chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 5/1954
Quay lại
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Diễu binh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh chúc mừng các chiến sỹ pháo cao xạ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Bộ đội và nhân dân rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 5/1954
Niềm vui chiến thắng, 13/5/1954
Đại tướng Võ nguyên Giáp trao cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch cho các đơn vị lập công xuất sắc ở Điện Biên Phủ, 13/5/1954
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" cho các chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 5/1954
Quay lại
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Diễu binh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh chúc mừng các chiến sỹ pháo cao xạ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Bộ đội và nhân dân rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 5/1954
Niềm vui chiến thắng, 13/5/1954
Đại tướng Võ nguyên Giáp trao cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch cho các đơn vị lập công xuất sắc ở Điện Biên Phủ, 13/5/1954
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" cho các chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 5/1954
Quay lại
Diễu binh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh chúc mừng các chiến sỹ pháo cao xạ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Bộ đội và nhân dân rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 5/1954
Niềm vui chiến thắng, 13/5/1954
Đại tướng Võ nguyên Giáp trao cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch cho các đơn vị lập công xuất sắc ở Điện Biên Phủ, 13/5/1954
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" cho các chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 5/1954
Quay lại
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh chúc mừng các chiến sỹ pháo cao xạ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Diễu binh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954
Bộ đội và nhân dân rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 5/1954
Niềm vui chiến thắng, 13/5/1954
Đại tướng Võ nguyên Giáp trao cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch cho các đơn vị lập công xuất sắc ở Điện Biên Phủ, 13/5/1954
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" cho các chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 5/1954
Quay lại
Bộ đội và nhân dân rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 5/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Diễu binh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh chúc mừng các chiến sỹ pháo cao xạ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Niềm vui chiến thắng, 13/5/1954
Đại tướng Võ nguyên Giáp trao cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch cho các đơn vị lập công xuất sắc ở Điện Biên Phủ, 13/5/1954
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" cho các chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 5/1954
Quay lại
Niềm vui chiến thắng, 13/5/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Diễu binh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh chúc mừng các chiến sỹ pháo cao xạ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Bộ đội và nhân dân rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 5/1954
Đại tướng Võ nguyên Giáp trao cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch cho các đơn vị lập công xuất sắc ở Điện Biên Phủ, 13/5/1954
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" cho các chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 5/1954
Quay lại
Đại tướng Võ nguyên Giáp trao cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch cho các đơn vị lập công xuất sắc ở Điện Biên Phủ, 13/5/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Diễu binh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh chúc mừng các chiến sỹ pháo cao xạ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Bộ đội và nhân dân rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 5/1954
Niềm vui chiến thắng, 13/5/1954
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" cho các chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 5/1954
Quay lại
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" cho các chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 5/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Nhân dân chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, 10/10/1954
Diễu binh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh chúc mừng các chiến sỹ pháo cao xạ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Bộ đội và nhân dân rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, 5/1954
Niềm vui chiến thắng, 13/5/1954
Đại tướng Võ nguyên Giáp trao cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch cho các đơn vị lập công xuất sắc ở Điện Biên Phủ, 13/5/1954
Âm mưu quân Pháp chiếm Điện Biên Phủ
Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ, ngày 20/11/1953
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
Quay lại
<p>Sơ đồ đổ bộ đường không của tướng Gilles tại Điện Biên Phủ, 20/11/1953</p>
<p>Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Plêven và Đại tá Đờ Cátơri kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Tướng Nava và tướng Cônhi thị sát tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 4/3/1954</p>
<p>Tướng Cônhi kiểm tra vị trí đóng quân của Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ trái sang phải: tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri và Trung tá Pirốt chỉ huy pháo ở Điện Biên Phủ), 1954</p>
<p>Toàn cảnh khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ khi bị Pháp chiếm đóng, 2/1954</p>
<p>Đại tá Đờ Cátơri đưa tướng Mỹ Ô Danien đi thăm, kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 2/2/1954</p>
<p>Tướng Nava, tướng Cônhi, Đại tá Đờ Cátơri họp bàn kế hoạch xây dựng trận địa và phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954</p>
<p>Tướng Ghilê chỉ huy quân dù Pháp ở Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, 1953</p>
<p>Mỹ viện trợ cho Pháp ở Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay B26 của Mỹ viện trợ vũ khí, trang bị cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Máy bay C47 - Dacota chuyển hàng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
<p>Quân Pháp nhảy dù tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 12/1953</p>
<p>Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi - Hải Phòng, 12/1953</p>
Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 20/11/1953
Bộ chỉ huy mặt trận được sự chỉ đạo của Trung ương căn cứ vào tình hình thực tiễn đã kịp thời thay đổi kế hoạch đánh Điện Biên Phủ trong 3 đêm 2 ngày bằng một kế hoạch mới theo phương châm "đánh chắc tiến chắc", nhằm phát huy tối đa ưu thế của ta hạn chế tối đa sức mạnh của địch.
Đại tướng Ô-đa-ni-en, chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954
Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
Đại tướng Ô-đa-ni-en, chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954
Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954
Đại tướng Ô-đa-ni-en, chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Quay lại
<p>Bộ trưởng quốc phòng Pháp Plê-ven và Đại tá Đờ-cát-tơ-ri kiểm tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, 1954</p>
Đại tướng Ô-đa-ni-en, chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, 1954
Tướng Ro-de-tơ, Tư lệnh không quân và tướng Gin-let, Tư lệnh quân dù ở Điện Biên Phủ, 1954